Thứ Tư, 27 tháng 2, 2008

LỊCH SỬ TƯ TƯỞNG TỔ CHỨC LAO ĐỘNG KHOA HỌC

Platon: đưa ra nguyên lý “phân công chuyên môn hoá lao động”
Alecxandre: sử dụng cố vấn, tư vấn mỗi khi ra quyết định quản lý
Thời Trung cổ đóng góp rất ít cho khoa học quản lý. Đến thế kỷ 14. vấn đề quản lý bắt đầu được chú trọng trở lại. Tại Ronido, người ta đã tổ chức lắp ráp tàu theo dây chuyền, đã tiêu chuẩn hoá các yếu tố sản xuất, tiến hành hạch toán giá thành, kiểm kê, đánh giá, khoán lương,..
Vào cuối thế kỷ 18, cách mạng công nghiệp lầm thứ 1 diễn ra ở Anh là chất xúc tác thúc đẩy, tăng cường quản lý. Người ta nhận thức: tiền lãi của sản xuất - kinh doanh phụ thuộc vào hiệu lực của quản lý.
Danich Mc.Callum qua thực tiễn quản lý công ty đường sắt Eric (Mỹ) 1854 -1857 đã nhấn mạnh chức năng tổ chức và kiểm tra của quản lý. Ông nêu ra 6 nguyên tắc cơ bản trong quản lý:
- Phân công trách nhiệm đúng đắn
- Trách nhiệm phải phù hợp với từng người và trao đủ quyền hành để hoàn thành nó
- Có phương tiện để kiểm tra việc hoàn thành trung thực trách nhiệm
- Phải báo cáo nhanh chóng những sai lệch để điều chỉnh
- Những thông tin phải được qua hệ thống báo cáo và kiểm tra hàng ngày nhằm không gyây khó khăn cho cán bộ chủ chốt và không làm giảm ảnh hưởng của họ với cấp dưới.
- Phải có một hệ thống không chỉ tạo điều kiện cho người quản lý “tổng hợp lập tức phát hiện sai lầm, mà còn chỉ ra được những người làm việc chểnh mảng.
Tay Lor (người Mỹ, 1856 -1915) được coi là cha đẻ của môn khoa học quản lý đã nghiên cứu, tìm ra cách tác động hữu hiệu vào thói thụ động, dựa dẫm của người thừa hành. Cách tác động của ông là tách nhỏ công việc giao cho nhân công chuyên môn thực hiện + khoán trước mức lương + giám sát từ nhiều phía.
Ông sinh ở Philadelphie (Mỹ), ham học sinh ngữ. Từ nhỏ ông ưa sự rõ ràng, chính xác, ghét sự phỏng chừng. Nhưng vì tật ở mắt, ông không học được nhiều và năm 18 tuổi ông xin làm việc trong một xưởng, ông chỉ có một tờ chứng chỉ thợ tập nghề. Người ta cho ông làm lao công.
Năm 1878, ông làm cho một cồng ty thép Midvale, lần lượt làm đủ công việc trong nhà máy. Ba năm sau ông làm cho năng lực sản xuất của hãng tăng lên gấp đôi. Ba năm sau nữa ông được thăng lên chức chánh kỹ sư.
Năm 1890, ông làm quản lý công ty Manufacturing Investment. Thời buổi đó khó khăn, ông không thành công; năm 1893 ông xin thôi và từ đó đem hết tâm trí vào sự thực hành phương pháp của ông để tổ chức công việc các xưởng.
Từ năm 1900 trở đi, ông về khu vườn của ông ở Philadelphine, xuất bản bút ký và luận văn. ông dùng 10 cách sau:
1. Dùng máy móc, khí cụ tinh xảo hơn, hợp với công việc và tài năng của mỗi người (Tân thức hoá)
- Máy móc, đồ dùng phải hợp với việc: VD: một người ở quê, cứ 3 ngày một lần ra chợ bán một gánh rau, nếu mua 1 xe tải để chở rau, lợi không thấy mà sạt nghiệp. Vậy, trước khi sắm máy mới, hoặc đổi máy cũ, phải tính toán kỹ xem có lợi không. Tân thức hoá phải hợp lý; phải cân nhắc trong lợi hại khi dùng máy móc, thiết bị.
- Đồ dùng phải hợp với người làm. Taylor làm ở công ty Thép Bethlehem, dùng 500 thợ xúc quặng đổ vào xa rùa. Ông thí nghiệm: Ộng dùng 2 người thợ xúc rất giỏi, để họ làm xa nhau, lại đặt thêm 2 thợ nữa ở bên cạnh mỗi người thợ đó, để xem cách họ làm và đo thời giờ làm. Ngày đầu ông dùng 1 cáci xẻng đựng được 19 kg và ông tính mỗi ngày người thợ xúc được 25 tấn quặng.
Ít lâu sau, ông rũt bớt bề mặt xẻng đi, cho nó còn được 16 kg và dùng xẻng đó thì được 30 tấn quặng mỗi ngày. Khi bề mặt chỉ còn 9-10 kg thì số quặng đựoc xúc cao nhất. Nếu rút nữa còn 6-7 kg thì số quặng rút đi tiếp.
2. Phân công (chia việc) cho từng người chuyên môn. Chia một sự khó khăn ra làm nhiều cái dễ. Phải phân công cho hợp lý -> phân công đưa tới chuyên môn: sự chuyên môn làm cho người ta khéo léo và làm cho máy móc sản xuất liên tục, khỏi phải nghĩ.
Phân công đưa tới nhất luật hoá mẫu mực: sự phân công đưa tới sự dùng mỗi một cái máy chuyên vào một việc nhỏ: có máy chuyên cắt thiếc, có máy chuyên làm nút chai bằng những miếng thiếc đó, có máy chuyên lắp nút đó vào miêng chai. VD: Nếu phải làm 10 kiểu nút thì tất nhiên phải có 10 kiểu máy. Như vậy tốn tiền lắm. Nếu một hãng phải làm 10.000 cái nút mỗi ngày, một cái máy làm một ngày thì xong, nay có tới 10 cái máy, tất nhiên chỉ có vài cái máy chạy độ vài giờ một ngày, còn những máy khác phải nghỉ. Như vậy, tốn tiền lắm. Cho nên phải bỏ bớt nhiều kiểu nút đi, chỉ giữ một vài kiểu nào thông dụng để làm mẫu mực thôi.
3. Công việc đó gọi là nhất luật hoá mẫu mực của đồ dùng và hoá vật. Nhất luật hoá có 3 mục đích:
+ Làm cho giản tiện, nghĩa là loại bớt những kiểu mẫu không có lợi gì cho người tiêu thụ. Hồi trước có 132 kiểu ngòi viết, 119 kiểu gạch xây tường
+ Làm cho hợp nhất: Những kiểu nào kích thước gần như nhau thì thua lại làm một kiểu.
+ Chỉ rõ những đặc điểm của những kiểu đã giữ lại làm mẫu mực và sắp đặt thành từng loại cho những nhà sản xuất theo những kiểu đó mà chế tạo và người dùng biết lựa thứ mà mua.
4. Hợp lý hoá cách thức làm việc bằng cách: nghiên cứu cử động - đo và tính thì giờ làm việc. Danh từ hợp lý hoá mới được thông dụng từ năm 1926, hồi mà các xí nghiệp Âu, Mỹ đua nhau dùng phương pháp của Taylor để tăng năng suất lên và hạ giá vốn. Trên 2000 năm trước, Trung Quốc có câu “Tin hết ở sách không bằng không có sách”. Tìm cách làm việc cho hợp lý là hợp lý hoá. Do đó:
- Nghiên cứu cách làm: Bất kỳ nghề gì cũng có thợ khéo và thợ vụng. Taylor hỏi theo “Tại sao người đó không biết cách làm? và cách làm phải ra sao? ông ta nghiên cứu kỹ nó, thí nghiệm nó, sau chép ra giấy đưa cho thợ làm.
- Nghiên cứu cử động:
+Trong khi nghiên cứu cách làm, ông chia công việc ra nhiều việc nhỏ, phân tích một cử động ra nhiều cử động nhỏ, bỏ hết những công việc không cần thiết cũng như những cử động vô ích cho khỏi mất thì giờ, khỏi phí sức, rồi ông đo đồng hồ xem cử động mất bao nhiêu giây, mỗi công việc mất mấy phút. VD: Thợ lấy đất cầm xẻng cắm xuống đất rồi lấy sức hai cánh tay đè lên cán xẻng cho xẻng ăn sâu xuống đất. Ông thấy vậy mau mệt và chỉ cho họ cách đặt cánh tay phải lên trên đùi bên phải rồi đè bằng cả sức nặng của thân họ xuống cái xẻng.
Nghề xây tường có từ bốn, năm nghìn năm. Gilbreth (một đồ đệ của Taylor) hồi đó chưa cầm gạch lần nào mà dám có ý nghĩa nghi ngờ sự hoàn thiện của nghề đó, thật cũng hàng tâm thay!
Ông nhận xét, suy nghĩ và thấy người thợ nề làm mất 18 cử động - > rút xuống còn 5 cử động. Từ việc trước đây chỉ xây được 120 viên gạch mỗi giờ thì nay xây được 350 viên.
Ông có 12 đứa con. Khi ông đi đâu về, muốn kêu chúng lại, huýt một tiếng còi rồi cầm đồng hồ lên xem trong 6 giây chúng đã tụ họp đủ chung quanh -> ông muốn cho chúng tập thói quen.
Các con ông phải rửa chén lấy. Ông quay phim khi chúng rửa để xem cử chỉ nào vô ích nào mà bỏ đi.
+ Muốn nghiên cứu cử động để bỏ những cử động vô ích hoặc mau mệt đi, ta phải nhớ những luật sau:
- Duỗi một bắp thịt ra thì không mệt. Có nó lại mới mệt. Càng co nhiều càng mệt. Càng co lâu càng mệt.
- Co nhanh chừng nào thì mau mệt chừng ấy.
- Co theo một tốc độ nào đó ta có thể làm được nhiều việc nhất và ít mệt nhất.
- Công việc làm càng mau thì bắp thịt càng được mau duỗi, nghĩa là mau được nghỉ.
- Khi làm một công việc nào, nếu ta được lợi về sức nhanh thì mất về sức mạnh, trái lại nếu được lợi về sức mạnh thì mất về sức nhanh. VD: cái đĩa xe máy càng lớn, nhiều răng thì đạp càng nhẹ (lợi về sức mạnh) nhưng xe đi càng chậm (thiệt về sức nhanh). Trái lạid dĩa càng nhỏ, càng ít răng thì ta đạp ce càng nặng (thiệt về sức) nhưng xe đi càng nhanh (lợi về sức nhanh).
- Làm nặng quá thì mau mệt, nhẹ quá thì chậm: làm nhanh quá cũng mau mệt. Có một tốc độ lợi nhất và khí cụ cũng có sức nặng hợp cho ta nhất,
- Khi mệt phải nghỉ ít nhất là 4 phút.
- Tiết điệu của công việc
- Tiết điệu là cái nhịp nhanh hay chậm, dài hay ngắn.
- Tiết điệu có 3 nguyên tố: tốc độ (nhanh hay chậm); thời gian (lâu hay mau), cường độ (mạnh hay yếu)
- Binet nghiên cứu tiết điệu của chữ viết, tuỳ theo tốc độ viết:
+ Gạch một đường thẳng hay tròn, khi tới giữa đường ta gạch mau hơn ở đầu đường và cuối đường.
+ Có sự thay đổi gì bất ngờ thì tốc độ chậm lại
+ Khi viết càng mau thì chữ càng nhỏ đi và càng liền với nhau, những càng thưa ra.
- Một người khác nghiệm rằng muốn cho vừa mau vừa ít mệt:
+ Bắt đầu cử động mỗi phút 20 lần
+ Bàn tay mặt khi đưa đi đưa lại độ 10
- Suy nghĩ và nói cũng có liên lạc với cử động. Vừa đi vừa suy nghĩ thì ý tới dễ dàng. Đương đi, có điều gì nghi ngờ trong ý nghĩ thì chân cũng tự nhiên ngừng lại.
- Muốn tổ chức công việc phải tính trước thì giờ làm việc: VD ta có hai công việc: lấy đất ở dưới hầm lên miệng hầm, xúc đất ở miệng hầm đổ vào xe rùa. Công việc thứ nhất lâu bằng hai công việc thứ nhì chẳng hạn. Nếu ta biết tính trước như vậy, ta sẽ đặt 2 người ở dưới, 1 người ở trên, để cho người ở trên luôn có công việc làm.
5. Chuẩn bị công việc: Sau khi đã định cách làm việc và đo thì giờ làm việc, phải chuẩn bị công việc, nghĩa là dự bị sẵn sàng đầy đủ bằng cách:
- Vẽ rỗ mỗi bộ phận của hoá vật ta định chế tạo
- Vẽ một hình chỉ rõ cách ghép các bộ phận ra sao cho thành hoá vật.
- Viết chỉ thị rõ công việc phải làm ra sao và bằng những đồ dùng nào.
- Ghi thì giờ cần thiết để làm mỗi bộ phận, rồi cộng lại xem cần mất bao nhiêu thời gian.
- Tính phí tổn để làm mỗi việc
- Vẽ những biểu đồ liên lạc để tìm cách rũt bớt quãng đường đi lại cho khỏi mất thì giờ.
Chuẩn bị là định trước, chứ không phải là nhất định, nếu thấy chỗ nào bát tiện thì phải sửa đổi ngay, chuẩn bị lại.
6. Phối trí công việc: Có chuẩn bị công việc rồi mới phối trí công việc được. Phối chí là sắp đặt ra sao cho công việc này tiếp theo liền công việc khác không bị gián đoạn. Phối trí có ý nghĩa:
- Cho lúc nào thợ cũng có công việc
- Cho máy chạy luôn luôn không ngừng.
Muốn chuẩn bị công việc, phải làm những đồ biểu kế hoạch và phương pháp làm chuyền
7. Kiểm soát công việc: Kiểm soát những gì:
- Kiểm soát thì giờ
- Kiểm soát chi phí
- Kiểm soát nguyên liệu
- Kiểm soát kỳ hạn
- Kiểm soát chất lượng sản phẩm
8. Định số nguyên liệu cần phải dự trữ:
- Dự trữ tối thiểu
- Dự trữ phòng xa
- Dự trữ tối đa (dự trữ tối thiểu + dự trữ phòng xa)
9. Tính cách trả công sao cho thợ hăng hái làm
10. Cho họ những hoàn cảnh thuận tiện để làm việc.
+ Công việc phải hợp với tâm lý và sinh lý mỗi người: Tâm lý đàn bà khác đàn ông. Đàn bà có lòng nhân từ nhưng phần tình cảm thắng lý trí cho nên rất tận tâm những cũng rất cô chấp. Đàn ông, vì lý trí thắng tình càm, cho nên sáng suốt hơn, quả quyết hơn nhưng có phần ích kỷ. Ngoài ra có người nóng nảy, có người điểm tĩnh, có người hăng hái, có người điềm tĩnh,... Về sinh lý có hạng người bắp thịt nổi khắp mình, có người toàn thân chỉ là một bó gân hoặc một bao mỡ.
+ Cách lựa chọn: Phải lựa chọn theo:
- Thị hiếu: cái mà ta ưu thích, ham mê. Nhưng cũng có khi thị hiếu không hợp với tài năng -> giải thích. Đại khái “những người hung tơn thường làm nghề đồ tể, những người lãnh đạm, có thứ tự, giỏi lý luận, biết tự chủ, thường lựa nghề kỹ sư, nhưng ví tít giao du cho nên không nên cai quản một xí nghiệp. Kẻ ưa tĩnh, không chịu bó buộc, bao giờ cũng lựa chọn nghề tự do. Những thày thông thày ký phần nhiều là những người gầy ốm, ít vui, chăm chỉ, kiên tâm, có thứ tự, ít hoạt động, có ý tứ, cẩn thận, cần kiệm và hay lo xa. Trái lại những người bán hàng, giao thiệp nhiều, thường là người tròn, mập, có óc thực tế, nhưng không cần kiệm và ít thành thật”.
- Lựa chọn người theo tài năng: về thể chất (vác nặng, tài leo, tài lặn,..); giác quan (tay khéo, mắt nhanh, tai thính,...); trí tuệ (nhớ dai, mau hiểu, dễ chú ý, giàu tưởng tượng,...). Muốn đoán được tài năng mỗi người, phải biết thể chất và tính tình họ.
+ Những hoàn cảnh thuận tiện để làm viêc:
- Ăn uống: Cần trả công cho thợ đủ sống. Họ có sống mới làm việc được. VD ở Pháp người ta đã tính toán: Không làm việc gì cần có: 2.500 - 3.000 calo; Làm việc nhẹ: 3.000 - 3.600 calo; Làm việc năng: 5.000 calo.
- Ánh sáng: Ánh sáng tự nhiên - hướng xưởng về hướng bắc, 2 bên hông là tường, phía trước phía sau là kính. Những kính đó lên quét sơn đặc biệt cho anh nắng chiếu qua được mà không cho tia năng xuyên qua. Ánh sáng nhân tạo: muốn cho đủ ánh sáng phải có từ 5-10 lux ở ngoài sân tại các lối đi; 20-30 lux trong những kho chứa đồ; 50 lux trong phòng giấy; 100 - 200 lux trong phòng vẽ, phòng may vá; trên 1500 lux trong phòng mổ. Đồng thời nghiên cứu các cách chiếu sáng: chiếu sáng chung cả phòng làm việc; chiếu sáng riêng chỗ làm việc; chiếu sáng hỗn hợp; chiếu sáng trực tiếp; chiếu sáng gián tiếp; chiếu sáng bán trực tiếp (6/4).Trong phòng giấy có bàn đánh máy nên dùng chiếu sáng hỗn hợp; trong phòng vẽ, muốn không bị bóng nên chiếu sáng gián tiếp; ngoài sân nên dùng những ngoàn đèn chụp láng để tăng sức sáng lên.
- Sự thoáng hơi: mỗi người thợ ít nhất phải có 7 m3 khí trong 4 giờ.
- Nhiệt độ của không khí: Giữ cho nhiệt độ nơi làm việc đều đều vào khoảng 15 độ. Muốn vậy phải dùng máy sưởi điện khi trởi lạnh hoặc máy lạnh khi trời nóng; Nhiệt độ dưới chân (khoảng 10, 15 phân cách mặt đất) nên cao hơn nhiệt độ ở đầu cho khỏi chóng mặt; Không khí trong phòng nên lưu thông vớ tốc độ 10 - 20 phân mỗi giây; Độ ẩm thấp trong phòng không được trên 60%,...
- Tiếng động và âm nhạc
- Màu sắc: một vật sơn đỏ thì người ta thấy nặng hơn là sơn xanh, sơn mầu thẫm nặng hơn sơn màu nhạt; màu trắng phản chiếu tới 90% ánh sáng, màu vàng 70% màu xanh lá cây 60%, màu xám nâu 40%; màu vàng dễ thấy nhất, màu da cam cho ta chú ý tới trước nhất; muốn cho chữ dễ đọc thì nên dùng màu đen trên nền vàng rồi tới chữ xanh dương (xanh lơ) trên nền trắng, chữ trắng trên nền đen; Muỗi không ưa màu vàng.
- Sự thứ tự và sự thuận tiện: Sự quá thứ tự có khi làm mất thì giờ. Ai cũng biết rằng hễ giấu một vật kỹ quá thì mất công tìm kiếm lâu. Giấy tờ ở công sở cũng vậy, chia ra nhiều loại quá chỉ tốn công, những loại giấy giống nhau có thể thu lại một mối; những lối đi nào có nhiều người, phải được vạch rõ lên đất, lên gạch; Những vật chướng ngại phải được sơn trắng cho dễ thấy; những ống nước, ống hơi, ống điện phải được sơn bằng những màu đã định trước cho ai thấy màu đó cũng biết là ống gì ngay; chỗ làm việc phải rộng cho dễ làm việc. Mỗi nhân viêc phải có 6 m vuông trong phòng quản lý, 9 m2 trong phòng nghiên cứu; phải tìm cách cho thợ ngồi làm việc được; đừng bắt họ đứng mết sức vô ích,...

Một đồ đệ của Ông, Gilberth (phụ thân của cuốn Cheaperr bay the dozen) áp dụng phương pháp của ông vào việc xây dựng và làm cho công việc nhanh lên gấp ba. Một người thợ, trước đặt được 120 viên gạch mỗi giờ, nhờ Gilbreth mà đặt được 350 viên mỗi giờ.
Taylor còn nghiên cứu về sự mệt nhọc của não, để lựa người làm, định giờ nghỉ ngơi cho họ và đem thực hành vào việc soát lại những viên bi xe máy, ông cũng làm cho công việc nhanh lên gấp ba.
Những sự sáng tạo làm cho cả thế giới biết danh ông là sau 26 năm thí nghiệm, ông tìm cách cắt những kim thuộc (thép, sắt, đồng,...) nhanh gấp hai lỗi cũ.

Henry Fayol (người Pháp 1849-1925) là cha đẻ của thuyết hành chính trong quản lý. Qua thực tiễn quản lý sản xuất kinh doanh khai khoáng và luyện kim, ông đã viết cuốn sách “Quản lý nói chung và quản lý công nghiệp”. Ông đã đặt nền móng cho lý thuyết chung về quản lý. Sáng kiến của Fayol ở câu “Trong một xí nghiệp, những nhân viên ở dưới, thừa hành mệnh lệnh của người trên, cần có học chuyên nghiệp, còn người chỉ huy khôngcần học nhiều mà cần biết cách quản lý hơn. Ông diễn giải ý đó trong phần thứ nhất của cuốn Quản lý kỹ nghệ và thông thường. Ông phàn nàn các trường chỉ dạy cho sinh viên đủ các ngành khoa học mà không hề dạy cách lựa người, dùng người, chỉ huy người, mà chính là người quan trong hơn hết. Những người chỉ huy ngồi trong phòng giấy, giao thiệp luôn luôn với những người giúp việc, chứ có cần điều khiển máy móc móc đâu mà bắt họ học kỹ lưỡng những môn ở trường. Họ cần biết người chứ không cần biết toán”. Ông chia công việc quản lý trong xí nghiệp ra 6 loại: 1. công việc kỹ thuật; 2. công việc tài chính; 3. công việc thương mại; 4. công việc an ninh; 5. công việc kế toán; 6. công việc quản lý.
Công việc quản lý gồm 5 khoản:
- Dự tính chương trình làm việc: Ai? cái gì? ở đâu? bằng cách nào? tại sao? ra sao? khi nào?
- Tổ chức công việc: khi tổ chức phải nhớ những nguyên tắc sau: Mỗi công việc chỉ để một người chịu trách nhiệm thôi. Bên cạnh đó, luôn phải có người thay thế phòng khi người kia vắng mặt; Khi giao việc phải đơn giản, rõ ràng;
- Chỉ huy: muốn chỉ huy phải đặt ra những điều lệ, kỷ luật và những chỉ thị cho nhân viên. Cần phải có sự duy nhất trong chỉ huy. Ngoài ra còn quán triệt nguyên tắc như: người nhận trách nhiệm phải rõ ràng; đã giao việc thì người đó phải có quyền tương đương đủ để làm tròn trách nhiệm;
- Phối trí:
- Kiểm soát xem công việc có làm đúng chương trình, đúng chỉ thị, đúng nguyên tắc không.

Ông đã tổng kết được 14 luận điểm quản lý điều hành.
- Phân công lao động
- Quyền lực
- Kỷ luật
- Chỉ huy thống nhất.Mỗi cấp chỉ nhận mệnh lệnh từ một cấp trên.
- Chỉ đạo thống nhất. Những hoạt động nhưnhau phải do một người quản lý chỉ huy theo một kế hoạch tác nghiệp duy nhất.
- Sự trợ giúp của cá nhân đối với lợi ích chung.
- Thù lao hợp lý.
- Tập trung hoá. Việc ra quyết định phải được tập trung ở cấp có quyền hành cao nhất.
- Hệ thống quyền lực
- Trật tự. Cần phân cho mỗi người công việc phù hợp nhất,
- Công bằng. Đối xử công bằng và tốt với nhân viên
- Nhiệm kỳ ổn định. Nên hạn chế việc thuyên chuyển họ
- Sáng tạo. Người quản lý nên trao một số quyền tự do cho cấp dưới để họ triển khai và hoàn thành kế hoạch.
- Tinh thần đồng đội.
Hugo Munsterber (1863-1916) giáo sư tâm lý ứng dụng người Đức, trong cuốn “Tâm lý và hiệu quả công nghiệp” đã đề nghị các nhà tâm lý học công nghiệp tập trung giải quyết 3 vấn đề quan trọng:
- Tìm chọn người có sức khoẻ, tâm tính, trí tuệ thích hợp với công việc;
- Đảm bảo công việc có các yêu cầu tâm lý tối ưu
- Tối ưu hoá các tác động đến công nhân dể thu được các phản ứng tích cực
Follett (người Anh, 1868-1933) luôn phản đối việc thi hành quyền lực một cách thẳng thừng vì làm như vậy người dưới quyền sẽ phản ứng tiêu cực, gây khó khăn cho hợp tác. Bà đưa ra quy luật tình thế:
- Mệnh lệnh là của tình thế chứ không phải là của người có quyền lực;
- Làm việc với nhau chứ không phải dưới quyền nhau;
- Tự kiểm tra hơn là bị kiểm tra;
Mayo và Hanthome (1929-1932) đã tạo ra bước ngoặt cho sự phát triển tri thức quản lý. Hai ông đã nghiên cứu hướng giải quyết vấn đề động cơ và tinh thần lao động. Khí thế lao động của con người do mức độ quan tâm, mức độ hợp lý của việc giải quyết vấn đề tiền lương, đảm bảo điều kiện làm việc và giải quyết các nhu cầu xã hội cho họ. Hãy tìm hiểu nhu cầu và động cơ lao động của người tham gia lao động chung và tìm cách làm cho họ được thoả mãn.
MaxWeber là nhà xã hội học người Đức đã đúc kết các yếu tố tổ chức quan trọng của quản lý như sau:
- Cần phân công chuyên môn hoá lao động rõ ràng
- Đảm bảo cơ cấu tổ chức hợp lý để có mạch chỉ huy rõ ràng
- Cần có hệ thống nội quy, văn bản chính thứcnhằm chỉ đạo, điều tiết, phối hợp hành động của các bộ phận hợp thành tổ chức.
- Không được để tình cảm lấn át sự đánh giá khách quan
- Cần tuyển dụng, đề bạt người làm việc theo năng lực; đảm bảo cho họ tiền lượng và các khoản đãi ngộ khác hợp lý nhất.
Cherter Barnarol (1886-1961) đã đi sâu nghiên cứu tính hệ thống của một cơ quan và các chức năng quản lý. ông có công trong vệc xây dựng khoa học quản lý hiện đại. Ông bắt đầu nghiên cứu bằng các câ hỏi: tại sao lại hình thành cơ quan? Tại sao các cá nhân đó lại hợp nhau thành tập thể? Theo ông, tại vì họ có cùng mục tiêu nào đó; nhất trí hướng hoạtd dộng, sẵn sàng hợp tác với nhau, bổ sung mặt mạnh cho nhau. Ông cho rằng: quản lý không phải là thực hiện các công việc trực tiếp, cụ thể, mà là chuyên thực hiện các công việc có tính chất định hướng, điều phối các hoạt động thừa hành. Đó là:
- Định rõ mục tiêu của tổ chức
- Đảm bảo vật tư, kỹ thuật (điều kiện làm việc) cho những người thừa hành;
- Đảm bảo thông tin về cơ hội, về trạng thái cơ quan và bộ phận trng tổ chức cho người thừa hành, cho lành đạo, cho nội bộ quản lý.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, từ những năm 50 của thế kỷ 20, sự cần thiết quản lý một cách khoa học xuất hiện rộng lớn hơn, mạnh mẽ hơn. Trong quản lý sản xuất - kinh doanh, người ta thấy càng cần thiết phải đảm bảo tính đồng bộ, tính định lượng.

Không có nhận xét nào: