Thứ Năm, 10 tháng 9, 2009

PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Khái niệm về phương pháp lãnh đạo, quản lý
Có nhiều khái niệm về phương pháp lãnh đạo, quản lý và mỗi một phương pháp phụ thuộc vào ý chí, trình độ, năng lực của chủ thể lãnh đạo, quản lý. Mặc dù vậy, các phương pháp lãnh đạo, quản lý đều có một điểm chung là tính chủ động, quyết đoán của chủ thể lãnh đạo, quản lý và ý thức chấp hành, thực hiện của khách thể lãnh đạo, quản lý.
Phương pháp quản lý là tổng thể các cách thức tác động có thể có và có chủ đích của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý (cấp dưới và tiềm năng có được của hệ thống) và khách thể quản lý (các hệ thống khác, các ràng buộc của môi trường..) để đạt được các mục tiêu đề ra trong điều kiện biến động của môi trường.
Do vậy, giữa chủ thể và khách thể lãnh đạo, quản lý có quan hệ với nhau một cách chặt chẽ. Mối quan hệ này thể hiện vị trí, vai trò của người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý. Và một khi người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý cùng hướng đến một mục đích chung của một công việc, một nhiệm vụ nào đó thì sẽ đạt được kết quả như mong muốn. Ngược lại, nếu giữa người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý thiếu sự hợp tác, không có sự thống nhất nhau về quyền lợi và trách nhiệm thì công việc sẽ gặp nhiều khó khăn, kết quả thu được sẽ hạn chế.
Tác động của phương pháp lãnh đạo, quản lý luôn là tác động có mục tiêu, nhằm phối hợp hoạt động, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống. Vì vậy, mục tiêu quản lý quyết định việc lựa chọn phương pháp lãnh đạo. Trong quá trình lãnh đạo người lãnh đạo phải luôn điều chỉnh các phương pháp nhằm đạt mục tiêu tốt nhất. Người lãnh đạo có quyền lựa chọn phương pháp lãnh đạo, nhưng không có nghĩa là chủ quan, tuỳ tiện, muốn sử dụng phương pháp nào cũng được. Mỗi phương pháp lãnh đạo khi sử dụng lại tạo ra một cơ chế tác động mang tính khách quan vốn có của nó. Bên cạnh những yếu tố tích cực, phù hợp với mục tiêu dự đoán ban đầu còn có những yếu tố không phù hợp, thậm chí trái ngược với mục tiêu đặt ra. Điều đó đòi hỏi người lãnh đạo phải tỉnh táo, sâu sát thực tế, kịp thời có biện pháp bổ sung để khắc phục các mặt tiêu cực khi chúng xuất hiện.
Như vậy, phương pháp lãnh đạo, quản lý không có một công thức định sẵn như trong toán học, mà nó luôn thay đổi cùng với sự thay đổi của cơ chế quản lý của những điều kiện khách quan và chủ thể, của ý chí, nghệ thuật lãnh đạo, quản lý. Điều đó cho thấy, phương pháp lãnh đạo, quản lý rất đa dạng và mỗi một chủ thể lãnh đạo, quản lý có một phương pháp lãnh đạo, quản lý riêng để đạt mục đích của mình.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phương pháp lãnh đạo, quản lý
a. Nhân tố khách quan
- Môi trường và điều kiện làm việc. Môi trường và điều kiện làm việc có ảnh hưởng đến phương pháp lãnh đạo, quản lý ở những khía cạnh sau:
+ Tạo ra tâm lý phấn khởi, thoải mái cho người quản lý, nếu môi trường và điều kiện làm việc tốt và ngược lại. Qua đó mà phương pháp lãnh đạo, quản lý của chủ thể được phát huy hay hạn chế.
+ Xây dựng được niềm tin, sự đoàn kết nhất trí trong các tổ chức, tập thể và cá nhân.
+ Phát huy được sức mạnh tổng hợp trong từng tổ chức, tập thể và người lao động.
+ Cơ chế quản lý, nội quy, quy chế, quy định...
Cơ chế quản lý, nội quy, quy chế, quy định... là những khuôn khổ pháp lý để người lãnh đạo, quản lý dựa vào đó thực hiện phương pháp lãnh đạo, quản lý của mình. Cơ chế quản lý, nội quy, quy chế, quy định được chặt chẽ, phù hợp sẽ tạo điều kiện nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của người lãnh đạo cũng như sự tuân thủ, chấp hành và thực thi nhiệm vụ của người bị lãnh đạo.
b. Nhân tố chủ quan
- Trình độ, năng lực của người lãnh đạo, quản lý
- Phương pháp lãnh đạo, quản lý sẽ không đạt được hiệu quả cao nếu người lãnh đạo, quản lý không đủ trình độ và năng lực chuyên môn, năng lực lãnh đạo, quản lý. Điều này có liên quan đến việc giao việc cho cán bộ là phải lựa chọn những người lãnh đạo có đủ đức, đủ tài, vừa hồng, vừa chuyên.
- Tinh thần trách nhiệm, tính tự giác, năng động, sáng tạo và ý thức chấp hành của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
Để thực hiện có hiệu quả phương pháp lãnh đạo, quản lý đòi hỏi cả chủ thể lãnh đạo, quản lý (người lãnh đạo) và khách thể lãnh đạo quản lý (người bị lãnh đạo) phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính tự giác, năng động, sáng tạo trong bất cứ một công việc gì dù lớn hay nhỏ, dù thuận lợi hay khó khăn, không được đẩy trách nhiệm cho nhau. Người lãnh đạo phải gương mẫu trong công việc, nói đi đôi với làm để làm gương cho cấp dưới noi theo.
- Quyền uy, uy tín của người lãnh đạo, quản lý.
+ Quyền uy thể hiện vị thế của người lãnh đạo, quản lý đối với người bị lãnh đạo, quản lý. Không có quyền uy hoặc lạm dụng quyền uy để "bắt nạt" người khác đều làm giảm hiệu lực và hiệu quả của phương pháp lãnh đạo, quản lý. Đương nhiên, quyền uy của người lãnh đạo, quản lý phải dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao thì mới phát huy được tác dụng trong thực tế. Nếu không tuân thủ điều đó thì quyền uy sẽ bị vô hiệu hoá. Uy tín của người lãnh đạo, quản lý có ảnh hưởng rất lớn đến phương pháp lãnh đạo, quản lý. Người lãnh đạo có uy tín cao không chỉ tạo được sự tin tưởng, kính trọng đối với cấp dưới mà còn nâng cao được uy tín cho cơ quan, đơn vị, địa phương mình công tác. Nhờ đó mà các chủ trương, nhiệm vụ đề ra được mọi người hưởng ứng và tích cực thực hiện.
- Phương pháp lãnh đạo, quản lý chịu tác động to lớn của nhu cầu và động cơ làm việc của người bị tác động xét theo thời gian và không gian diễn ra sự lãnh đạo, quản lý.
3. Đặc điểm của phương pháp lãnh đạo, quản lý
Các phương pháp lãnh đạo, quản lý hết sức linh hoạt với những đặc điểm cần chú ý là:
a. Phương pháp lãnh đạo, quản lý hết sức biến động, sự biến động này được thể hiện ở các hình thức biểu hiện của mỗi phương pháp tại mỗi thời điểm, mỗi đối tượng khác nhau là không giống nhau hẳn nhau. Cùng một phương pháp lãnh đạo nhưng ở nước này cách thể hiện khác ở nước kia, thậm chí ở cùng một nước nhưng địa phương này lại khác địa phương kia.
b. Phương pháp lãnh đạo, quản lý vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật
- Phương pháp lãnh đạo, quản lý là một khoa học vì nó có chủ thể lãnh đạo, quản lý và khách thể lãnh đạo, quản lý, thiếu một trong hai yếu tố đó thì không thể thực hiện được phương pháp lãnh đạo, quản lý. Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể lãnh đạo, quản lý được điều chỉnh bằng các quy định, các nguyên tắc, cơ chế mang tính pháp lý và bằng uy tín, niềm tin. Do đó, nếu một trong những nội dung trên bị vi phạm thì phương pháp lãnh đạo, quản lý sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện không có hiệu quả.
- Phương pháp lãnh đạo, quản lý là một nghệ thuật, bởi chủ thể lãnh đạo, quản lý thiếu một nghệ thuật trong phương pháp lãnh đạo, quản lý của mình thì hiệu lực và hiệu quả quản lý sẽ không cao, thậm chí có lúc thất bại. Thực tế cho thấy, có nơi, có lúc người lãnh đạo, quản lý thiên về cách dùng mệnh lệnh, nguyên tắc, biện pháp mà thiếu một nghệ thuật lãnh đạo, quản lý thì sẽ chấp hành và thực hiện mệnh lệnh của cấp dưới thiếu tính tự giác, thiếu tính chủ động, sáng tạo trong công việc.
c. Phương pháp lãnh đạo, quản lý luôn đan kết vào nhau; theo nghĩa là trong việc sử dụng phương pháp lãnh đạo này, cách thể hiện cụ thể đã có nội dung của các phương pháp lãnh đạo, quản lý khác xuất hiện. Điều này còn là cách xử lý nhược điểm của mỗi phương pháp lãnh đạo, quản lý riêng lẻ, chỉ có kết hợp chúng lại mới có thể phát huy được ưu điểm của mọi phương pháp và hạn chế phần khiếm khuyết của chúng.
d. Phương pháp lãnh đạo, quản lý đòi hỏi tính tự giác, tinh thần làm chủ và ý thức tổ chức kỷ luật cao của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo
- Ngoài những quy định có tính pháp lý, tính nguyên tắc, trong phương pháp lãnh đạo, quản lý còn đòi hỏi tính tự giác, tinh thần làm chủ và ý thức tổ chức, kỷ luật cao của người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý. Nói cách khác, tuỳ vào vị trí công tác của mình mà người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý phải tự mình thực hiện các công việc, nhiệm vụ được giao một cách tự giác, không đòi hỏi bất cứ một điều kiện gì và cũng không vì một lý do gì mà vi phạm các nguyên tắc, các quy định có tính pháp lý của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
- Tinh thần làm chủ, ý thức tổ chức kỷ luật cao của người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý cũng là những vấn đề đáng quan tâm. Nếu một trong những bên có liên quan tinh thần làm chủ và ý thức tổ chức, kỷ luật không cao thì sẽ dẫn đến tình trạng vô tổ chức, vô kỷ luật, làm đến đâu hay đến đó, không coi trọng lợi ích của Nhà nước, của tập thể và cá nhân để phấn đấu thực hiện hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao; thiếu tôn trọng nhau đối với người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
e. Phương pháp lãnh đạo, quản lý đòi hỏi văn hoá ứng xử và tính dân chủ cao người lãnh đạo và người bị lãnh đạo
- Văn hoá ứng xử thể hiện mối quan hệ tốt đẹp, lành mạnh giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo trong công việc hàng ngày. Đó là sự tôn trọng, yêu thương, quý trọng nhau, không cục bộ địa phương, không kèn cựa địa vị, không cá nhân chủ nghĩa, mình vì mọi người, mọi người vì mình; không xu nịnh cấp trên, trù dập, ức hiếp cấp dưới. Trong quan hệ công tác luôn tỏ thái độ vui vẻ, hoà nhã, kính trên, nhường dưới, gần gũi, động viên, giáo dục, thuyết phục, không định kiến hẹp hòi hoặc bàng quang, vô trách nhiệm, việc ai nấy làm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không góp ý, phê bình...
Văn hoá ứng xử có vai trò quan trọng đối với phương pháp lãnh đạo, quản lý, bởi nó rất cần thiết đối với cả người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
- Tính dân chủ cao cũng là đặc điểm của phương pháp lãnh đạo, quản lý. Nó thể hiện việc phát huy dân chủ đối với mọi người, nhất là đối với những vấn đề có liên quan đến trách nhiệm và quyền lợi của tập thể và cá nhân. Nó tôn trọng ý kiến của mọi người trong việc góp ý xây dựng cơ quan, tổ chức, cá nhân... Do đó, tính dân chủ càng cao thì càng phát huy rộng rãi ý kiến của mọi người một cách tích cực, tự giác, tạo không khí phấn khởi, thoải mái trong công việc, trong quan hệ giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
II. VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
Phương pháp lãnh đạo, quản lý là nhằm đạt được mục đích của người lãnh đạo, quản lý đối với công việc được giao trong những điều kiện và môi trường nhất định. Vì vậy, nó có các vai trò sau:
1. Đảm bảo thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của người lãnh đạo, quản lý đối với công việc được giao
Suy cho cùng mọi phương pháp lãnh đạo, quản lý cùng nhằm đạt được mục đích nào đó của người lãnh đạo, quản lý, cụ thể là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của người lãnh đạo, quản lý trong những điều kiện và môi trường nhất định, chẳng hạn:
- Đối với các đơn vị sản xuất, kinh doanh, phương pháp lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu đơn vị là làm thế nào động viên được tinh thần thi đua của người lao động, tích cực, hăng hái sản xuất kinh doanh, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về sản phẩm, chất lượng, hiệu quả, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu về sản phẩm, về giá trị hàng hoá, về doanh thu và lợi nhuận, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động.
- Đối với các đơn vị hành chính, sự nghiệp, phương pháp lãnh đạo, quản lý của người đứng đầu cơ quan là tạo ra được không khí làm việc dân chủ thoải mái, phấn khởi đối với công nhân, viên chức, phát huy tính tích cực, tự giác, ý thức tổ chức, kỷ luật, tính năng động, sáng tạo của mọi người đối với công việc được giao, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị.
- Không để xảy ra mất đoàn kết, bè phái, tham ô, lãng phí, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
- Chịu trách nhiệm trước cấp trên, trước tập thể và những công việc được giao trong công tác lãnh đạo, quản lý.
2. Phương pháp lãnh đạo, quản lý góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của các tập thể và cá nhân, nâng cao năng lực, uy tín của người lãnh đạo, quản lý
- Người lãnh đạo, quản lý có phương pháp lãnh đạo, quản lý tốt sẽ tập hợp được đông đảo quần chúng dưới quyền mình thực hiện tốt các kế hoạch, chủ trương công tác của người lãnh đạo đề ra. Quy tụ được đội ngũ, tạo được sự đoàn kết nhất trí, sự đồng thuận trong cán bộ, công chức, viên chức đối với công việc được giao. Nhờ đó mà chất lượng, hiệu quả công tác của tập thể và cá nhân được nâng cao. Ngược lại, người lãnh đạo, quản lý không có phương pháp lãnh đạo, quản lý tốt, không những làm yếu đi sức mạnh của tập thể, mà còn ảnh hưởng đến chất lượng và hiệu quả công tác của tập thể và cá nhân, tạo tâm lý lo lắng đối với mọi người, làm cho người lao động an tâm, phấn khởi trong lao động và học tập, không toàn tâm, toàn ý với công việc được giao.
- Thông quan phương pháp lãnh đạo, quản lý tốt hoặc không tốt mà năng lực, uy tín của người lãnh đạo, quản lý sẽ được nâng cao hoặc giảm sút. Điều đó thể hiện ở kết quả và hiệu quả của công tác lãnh đạo, quản lý, ở kết quả hoạt động của từng tập thể và cá nhân trong công tác chuyên môn, nghiệp vụ, trong việc thực hiện kế hoạch, chủ trương công tác của người lãnh đạo, quản lý.
3. Nâng cao khả năng cung cấp, tiếp nhận và xử lý thông tin giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo
Người lãnh đạo có phương pháp lãnh đạo, quản lý tốt sẽ làm cho mối quan hệ giữa người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý ngày càng chặt chẽ, gắn bó hơn, cấp trên tin tưởng vào cấp dưới và ngược lại. Nhờ đó mà khả năng cung cấp, tiếp nhận và xử lý thông tin được nâng cao. Đây chính là điều kiện thuận lợi để người lãnh đạo, quản lý nắm bắt thông tin được kịp thời, chính xác, thường xuyên từ cơ sở, từ các tập thể và cá nhân, trên cơ sở đó sáng lọc, xử lý thông tin phục vụ cho công tác lãnh đạo, quản lý của mình. Mặt khác, người bị lãnh đạo, đồng thời tiếp nhận những thông tin từ người lãnh đạo, quản lý về những điều mình quan tâm đối với công việc chung cũng như đối với những vấn đề có liên quan đến bản thân mình.
Chính việc nâng cao khả năng cung cấp, tiếp nhận và xử lý thông tin giữa người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý càng làm cho các mối quan hệ giữa các tập thể và cá nhân ngày càng chặt chẽ, thân thiện và hiểu biết nhau hơn, tạo được sự thông cảm, gần gũi, gắn bó nhau trong công tác và trong cuộc sống; tạo được sự đoàn kết, nhất trí, sự đồng thuận trong cơ quan, đơn vị...
4. Khơi dậy và phát huy được sức mạnh của mỗi tập thể và cá nhân, chống bệnh quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm giữa người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý
Người lãnh đạo, quản lý có phương pháp lãnh đạo, quản lý đúng, phù hợp, được mọi người đồng tình ủng hộ thì sẽ khơi dậy và phát huy được sức mạnh của mỗi tập thể và cá nhân. Bởi lẽ, phương pháp lãnh đạo, quản lý đó tạo được sự đồng sức, đồng lòng của mọi người cùng phấn đấu vì một mục tiêu và lợi ích chung, ngoài ra không có mục đích và động cơ nào khác, giữa cái chung và cái riêng có sự thống nhất, hài hoà.
Từ đó sẽ chống được bệnh quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm giữa người lãnh đạo và người bị lãnh đạo, thông qua uy tín trách nhiệm cá nhân và thông qua phê bình, tự phê bình, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đối với mọi người và đối với mọi người, nâng cao được trách nhiệm của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo.
III. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ THƯỜNG DÙNG
1. Ba cực của phương pháp lãnh đạo, quản lý
Phương pháp lãnh đạo, quản lý khá phong phú, chúng được hình thành chủ yếu từ sự kết hợp ba cực tương ứng với ba trạng thái của sự lãnh đạo:

Thành tựu khoa học công nghệ
Sự cam kết
Sự hợp tác
A
O
B
C





- Trạng thái thứ nhất, nhà lãnh đạo sử dụng các phương pháp dựa trên sự cam kết mang tính mệnh lệnh, cưỡng bức do quyền lực của mình đem lại (ví dụ, ai làm việc xấu sẽ bị xa thải, loại bỏ khỏi tổ chức); đó chính là phương pháp hành chính trong lãnh đạo, quản lý;
- Trạng thái thứ hai, nhà lãnh đạo, quản lý sử dụng các phương pháp dựa trên sự đồng thuận, hợp tác của con người trong tổ chức; mỗi người đều thấy cần phải gắn bó với nhau để cùng làm việc trong tổ chức thì mới đem lại kết quả chung và kết quản riêng mong đợi; đó là phương pháp giáo dục, phương pháp kinh tế trong lãnh đạo, quản lý.
- Trạng thái thứ ba, người lãnh đạo, quản lý sử dụng các phương pháp dựa trên thành tựu của khoa học công nghệ trong quản lý, cái được dùng làm một trong những căn cứ để lựa chọn hai trạng thái kia, đây chính là các phương pháp dựa vào kết quả của khoa học công nghệ trong lãnh đạo.
Trong sơ đồ, điểm A biểu thị các phương pháp lãnh đạo, quản lý thiên về quyền lực, cưỡng chế. Điểm B biểu thị các phương pháp lãnh đạo, quản lý thiên về vận động và sự cảm thông.
Điểm C là các phương pháp lãnh đạo, quản lý thuần tuý về mặt kỹ thuật không tính đến yếu tố tâm lý con người. Điểm O là phương pháp lãnh đạo kết hợp cả 3 trạng thái.
Việc lựa chọn điểm nào (ứng với phương pháp lãnh đạo, quản lý nào) trong hình lập phương lãnh đạo với 3 chiều: sự cam kết, sự hợp tác và thành tựu khoa học công nghệ, là phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể và tài năng, kinh nghiệm của nhà lãnh đạo).
2. Các phương pháp lãnh đạo thường dùng
a) Các phương pháp giáo dục, vận động, tuyên truyền.
Các phương pháp giáo dục là cách tác động vào nhận thức và tình cảm của con người trong hệ thống nhằm nâng cao tính tự giác và nhiệt tình lao động của họ trong việc thực hiện các nhiệm vụ.
Các phương pháp giáo dục có ý nghĩa lớn trong quản lý vì đối tượng của quản lý là con người - một thực thể năng động, là tổng hoà của nhiều mối quản hệ. Tác động vào con người không chỉ có hành chính, kinh tế, mà còn có tác động tinh thần, tâm lý - xã hội,...
Các phương pháp giáo dục dựa trên cơ sở vận dụng các quy luật tâm lý. Đặc trưng của các phương pháp này là tính thuyết phục, tức là làm cho con người phân biệt được phải - trái, đúng - sai, lợi - hại, đẹp - xấu, thiện - ác, từ đó nanag cao tính tự giác làm việc và sự gắn bó với hệ thống.
Các phương pháp giáo dục thường xuyên sử dụng kết hợp với các phương pháp khác một cách uyển chuyển, linh hoạt, vừa nhẹ nhàng vừa sâu sát đến từng người lao động, đây là một trong những bí quyết thành công của nhiều nhà lãnh đạo.
* Nội dung giáo dục:
- Giáo dục, vận động, tuyên truyền giải thích cho mọi người trong hệ thống hiểu rõ mục tiêu, ý đồ, chủ trương, chiến lược phát triển của hệ thống; có ý nghĩa cao đẹp mà hệ thống thực hiện; để từ đó giúp cho con người quyết tâm phấn đấu thực hiện các mục tiêu, ý đồ, chủ trương, chiến lược của hệ thống.
- Vạch rõ các khó khăn trở ngại mà hệ thống phải chấp nhận để mọi người trong hệ thống không dao động trước mọi biến động của thời cuộc, không bi quan chán nản lúc khó khăn.
- Giáo dục tổ chức kỷ luật, sự hoà đồng hỗ trợ và bảo vệ lẫn nhau giữa các con người trong hệ thống.
- Xoá bỏ các luồng tư tưởng và các thói quen tâm lý xấu gây hại cho sự hoạt động và phát triển của hệ thống (lối sống thực dụng cá nhân ích kỷ, lòng ghen ghét đố kỵ, tư tưởng phục ngoại sai trái, thói quen làm việc tuỳ tiện vô tổ chức).
* Hình thức giáo dục:
- Các hình thức truyền thông, bao gồm những tài liệu, chương trình huấn luyện, tuyên truyền và đội ngũ các nhana viên chuyên trách thực hiện công tác này trong hệ thống.
- Các sinh hoạt, các hoạt động cộng đồng trong hệ thống (thông qua các hoạt động của các phận hệ, các nhóm trong hệ thống: trong công việc, trong sinh hoạt, thậm chí trong các hoạt động nghỉ ngơi tập thể,...)
- Các hình thức vận động, giáo dục cá biệt trong hệ thống.
b) Các phương pháp hành chính
Các phương pháp hành chính là các phương pháp tác động dựa vào các mối quan hệ tổ chức của hệ thống quản lý. Bất kỳ một hệ thống quản lý nào cũng hình thành mối quan hệ tổ chức trong hệ thống. Về phương diện quản lý nó biểu hiện thành mối quan hệ giữa quyền uy và phục tùng, như người xưa thường nói quản lý con người có hai cách dùng ân và dùng uy. Dùng ân thì vững bền nhưng khó khăn và dễ trở thành phù phiếm, dùng uy thì nhanh chóng nhưng dễ mất tình người, cho nên quản lý trước hết phải dùng uy sau đó mới tính đến việc dùng ân.
Các phương pháp hành chính trong quản lý chính là cách thức tác động trực tiếp của chủ thể quản lý lên tập thể những người lao động dưới quyền bằng các quyết định dứt khoát, mang tính bắt buộc, đòi hỏi mọi người trong tổ chức phải chấp hành nghiêm ngặt, nếu vi phạm sẽ bị xử lý kịp thời, thích đáng.
Vai trò của các phương pháp hành chính trong quản lý rất to lớn, nó xác lập trật tự, kỷ cương làm việc trong hệ thống; giấu được ý đồ hoạt động; khâu nối các phương pháp khác lại thành một hệ thống; giải quyết các vấn đề đặt ra trong quản lý rất nhanh chóng.
Các phương pháp hành chính tác động vào đối tượng quản lý theo hai hướng: tác động về mặt tổ chức và tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý.
Theo hướng tác động về mặt tổ chức, chủ thể quản lý ban hành các văn bản quy định về quy mô, cơ cấu, điều lệ hoạt động, tiêu chuẩn nhằm thiết lập tổ chức và xác định những mối quan hệ hoạt động trong nội bộ. Theo hướng tác động điều chỉnh hành động của đối tượng quản lý, chủ thể quản lý đưa ra các chỉ thị, mệnh lệnh hành chính bắt buộc cấp dưới thực hiện những nhiệm vụ nhất định, hoặc hoạt động theo những phương hướng nhất định nhằm đảm bảo các bộ phận của hệ thống hoạt động ăn khớp, nhịp nhàng và đúng hướng, uốn nắn và khắc phục những rủi ro, lệch lạc có thể xảy ra.
Đó là hai mặt tác động của phương pháp hành chính, trong nhiều trường hợp chúng cùng được sử dụng và bổ sung cho nhau. Sự phối hợp đúng đắn các hình thức tổ chức và điều khiển trong quản lý là nhân tố quan trọng của việc sử dụng hợp lý các phương pháp hành chính
Các phương pháp hành chính đòi hởi các chủ thể quản lý phải có quyết định dứt khoát, rõ ràng, dễ hiểu, có địa chỉ người thực hiện, loại trừ các khả năng có nhiều cách giải thích khác nhau đối với nhiệm vụ được giao. Tác động hành chính có hiệu lực ngay từ khi ban hành quyết định. Vì vậy, các phương pháp hành chính hết sức cần thiết trong trường hợp hệ thống quản lý rơi vào các tình huống khó khăn phức tạp.
Đối với các quyết định hành chính thì cấp dưới bắt buộc phải thực hiện, không được lựa chọn. Chỉ người có thẩm quyền mới có quyền thay đồi quyết định.
Cần phân biệt phương pháp hành chính với kiếu quản lý hành chính quan liêu do việc lạm dụng kỷ luật hành chính, sử dụng mệnh lệnh hành chính thiếu cơ sở khoa học, theo ý muốn chủ quan. Nếu cán bộ quản lý và các cơ quan quản lý thiếu tỉnh táo, say mê quyền lực sẽ dẫn tới bệnh chủ quan, duy ý chí, quan liêu tham nhũng, đặc quyền đặc lợi.v.v. và kết quả là hạn chế sức sáng tạo của người lao động, xúc phạm nhân cách của con người, gây ra những tổn thất thậm chí phá huỷ hoàn toàn hệ thống. Đó cũng là nhược điểm của phương pháp hành chính.
Vì vậy, sử dụng các phương pháp hành chính đòi hỏi các cấp quản lý phải nắm vững những yêu cầu chặt chẽ sau:
Một là, quyết định hành chính chỉ có hiệu quả cao khi quyết định có căn cứ khoa học, được luận chứng đầy đủ về mọi mặt. Khi đưa ra một quyết định hành chính phải cân nhắc, tính toán đầy đủ về mọi phương diện. Người ra quyết định phải hiểu rõ tình hình thực tế, nắm vững tình huống cụ thể. Cho nên khi đưa ra các quyết định hành chính phải cố gắng có đủ những thông tin cần thiết cho việc ra quyết định, tính toán đầy đủ đến lợi ích và các khía cạnh có liên quan đảm bảo cho quyết định hành chính có căn cứ khoa học.
Người quản lý có nhiều kinh nghiệm không chỉ ra quyết định khi có đủ thông tin mà còn có khả năng ra quyết định khi thông tin không đầy đủ trên cơ sở dự đoán được những nét phát triển chính, những diễn biến tích cực cũng như các khía cạnh tiêu cực có thể diễn ra khi các quyết định được thi hành. Từ đó sẵn sàng bổ sung các biện pháp, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực nếu có.
Hai là, khi sử dụng các biện pháp hành chính phải gắn chặt quyền hạn và trách nhiệm của người ra quyết định. Mỗi cấp quản lý, mỗi cán bộ không phải chỉ có quyền hạn của mình mà còn phải có trách nhiệm về việc sử dụng những quyền hạn đó. Nếu quyền hạn không tương xững với trách nhiệm sẽ dẫn đến không dám ra quyết định vì sợ trách nhiệm, hoặc đưa ra quyết định hành chính nhưng không chịu trách nhiệm. Cả hai trường hợp: Có quyền hạn mà không có trách nhiệm hoặc có trách nhiệm mà không có quyền hạn đều là môi trường tốt cho tư tưởng và hành động quan liêu.
Ba là, trong mọi trường hợp, cần tránh những hình thức quản lý mệnh lệnh tuyệt đối, xem nhẹ nhân cách của người chấp hành.
Tóm lại, các phương pháp hành chính là hoàn toàn cần thiết, không có phương pháp hành chính thì không thể quản lý hiệu quả. Nhưng cũng cần lưu ý rằng không nên tuyệt đối hoá phương pháp hành chính vì nó sẽ dẫn đến quản lý hành chính mệnh lệnh quan liêu, duy ý chí và nôn nóng vội vàng sẽ gây ra hậu quả xấu.
c) Các phương pháp kinh tế
Các phương pháp kinh tế là các phương pháp tác động gián tiếp vào đối tượng bị quản lý, thông qua các lợi ích kinh tế và đòn bẩy kinh tế, để cho đối tượng bị quản lý tự ý lựa chọn phương án hoạt động có hiệu quả nhất trong phạm vi hoạt động của họ mà không cần phải thường xuyên tác động về mặt hành chính
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của con người đều tuân theo các quy luật kinh tế. Để quản lý một cách khoa học, điều quan trọng là chủ thể quản lý phải tìm tòi và sử dụng đầy đủ một cách hữu hiệu những hình thức và công cụ thích hợp nhất để thực hiện những quy luật khách quan. Những lợi ích được coi là cơ sở để kích thích tính tích cực xã hội của con người. Các phương pháp kinh tế chính là các phương pháp tác động vào con người thông qua các lợi ích kinh tế bằng các công cụ kinh tế như tiền lương, tiền thưởng, các định mức kinh tế- kỹ thuật… tức là về thực chất các phương pháp kinh tế là một biện pháp để sử dụng các quy luật kinh tế.
Tác động thông qua lợi ích kinh tế chính là tạo ra động lực thúc đẩy con người tích cực lao động. Lợi ích vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quản lý. Động lực đó càng lớn, nhận thức đầy đủ và kết hợp đúng đắn các loại lợi ích tồn tại khách quan trong hệ thống, mục tiêu đạt được sẽ càng cao. Mặt mạnh của phương pháp kinh tế chính là ở chỗ nó tác động vào lợi ích của đối tượng quản lý (là cá nhân hoặc tập thể lao động), nó đặt người lao động vào những điều kiện kinh tế cụ thể để họ có khả năng kết hợp đúng đắn lợi ích của mình với lợi ích chung chung của hệ thống. Điều đó cho phép người lao động lựa chọn con đường có hiệu ảu nhất để thực hiện.nhiệm vụ của mình.
Vì vậy, phương pháp kinh tế giữ vai trò trung tâm trong các phương pháp quản lý và nó là phương pháp năng động, nhạy bén nhất, là phương pháp quản lý tốt nhất để thực hành tiết kiệm và nâng cao hiệu quả kinh tế. Thực tế quản lý chỉ rõ, khoán là phương pháp tốt nhất để giảm chi phí, nâng cao năng suất.
Đặc điểm của phương pháp kinh tế là nó tác động lên đối tượng quản lý không bằng cưỡng bức hành chính mà bằng lợi ích, tức là chỉ đề ra mục tiêu nhiệm vụ phải đạt, đưa ra những điều kiện khuyến khích về kinh tế, những phương tiện vật chất có thể sử dụng để họ tự tổ chức việc thực hiện nhiệm vụ. Chính các tập thể, cá nhân (với tư cách là đối tượng quản lý) vì lợi ích thiết thân, phải tự xác định và chọn phương án giải quyết vấn đề. Các phương pháp kinh tế chấp nhận có thể có những giải pháp kinh tế khác nhau cho cùng một vấn đề. Đồng thời, khi sử dụng phương pháp kinh tế, chủ thể quản lý phải biết tạo ra những tình huống, những điều kiện để lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể phù hợp với lợi ích chung của hệ thống.
Các phương pháp kinh tế mở rộng quyền chủ động cho các cá nhân và cấp dưới, đồng thời tăng trách nhiệm kinh tế của họ. Điều đó giúp cho chủ thể quản lý giảm được việc điều hành, kiểm tra, đôn đốc chi ly, vụn vặt mang tính chất sự vụ hành chính, nâng cao ý thức tự giác của người lao động. Việc sử dụng các phương pháp kinh tế luôn được các chủ thể quản lý định hướng nhằm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu kinh tế của từng thời kỳ. Những nhiệm vụ kế hoạch, các mục tiêu đó không phải gò ép áp đặt mà phải có căn cứ khoa học. Chủ thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng phương pháp kinh tế theo những hướng sau:
+ Định hướng phát triển chung cho tổ chức bằng các mục tiêu, nhiệm vụ phù hợp với điều kiện thực tế của hệ thống, bằng những chỉ tiêu cụ thể cho từng thời gian, cho từng phân hệ, từng cá nhân của hệ thống.
+ Sử dụng các định mức kinh tế- kỹ thuật, các biện pháp đòn bẩy kích thích kinh tế để lôi cuốn, thu hút, khuyến khích các cá nhân phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
+ Bằng chế độ thưởng phạt vật chất, trách nhiệm kinh tế chặt chẽ để điều chỉnh hoạt động của các bộ phận, các cá nhân, xác lập trật tự kỷ cương, xác lập chế độ trách nhiệm cho mọi bộ phận, mọi phân hệ cho đến từng người lao động trong hệ thống.
Ngày nay phương pháp kinh tế đang được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực quản lý. Để áp dụng tốt phương pháp này cần phải chú ý đến một số vấn đề quan trọng sau đây:
Một là, việc áp dụng các phương pháp kinh tế luôn luôn gắn với việc sử dụng đúng các đòn bẩy kinh tế như giá cả, lợi nhuận, lãi suất, tín dụng, tiền lương, tiền thưởng… Nói cách khác, việc sử dụng các phương pháp kinh tế gắn với việc sử dụng các phạm trù kinh tế, nhất là các quan hệ hàng hoá- tiền tệ. Để nâng cao hiệu quả sử dụng các phương pháp kinh tế phải hoàn thiện hệ thống các đòn bẩy kinh tế trên cơ sở nâng cao nhận thức và năng lực vận dụng các quan hệ hàng hoá- tiền tệ, quan hệ thị trường.
Hai là, để áp dụng phương pháp kinh tế phải thực hiện sự phân cấp đúng đắn giữa các cấp lãnh đạo, quản lý. Bởi vì, khi quá trình phân công lao động được mở rộng và ngày càng trở nên sâu sắc thì mối quan hệ trong đời sống kinh tế càng trở nên phức tạp hơn, việc quản lý sẽ phức tạp và kết quả sẽ đạt tốt nhất ở nơi nào việc áp dụng các phương pháp kinh tế được mở rộng. Khi sử dụng rộng rãi các phương pháp kinh tế, các cơ quan cấp dưới không chỉ là người thực hiện mà họ còn có trách nhiệm với công việc của mình. Có những vấn đề trước đây do cơ quan cấp trên giải quyết, bây giờ do chính cơ quan cấp dưới tự giải quyết. Như vậy việc mở rộng quyền hạn cho cấp dưới không chỉ còn là hình thức mà còn trở thành hiện thực có hiệu quả.
Ba là, sử dụng phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ quản lý kinh tế phải có trình độ và năng lực về nhiều mặt. Bởi vì sử dụng các phương pháp kinh tế đòi hỏi cán bộ lãnh đạo, quản lý phải hiểu biết và thông thạo nhiều loại kiến thức và kinh nghiệm quản lý, đồng thời phải có bản lĩnh và tính tự chủ cao.
d) Các phương pháp lãnh đạo hiện đại
Đó là các phương pháp lãnh đạo dựa vào việc sử dụng phổ biến và có hiệu quả các thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại trong quản lý, mà hiện nay đó là xu hướng đưa tin học và toán kinh tế vào công tác quản lý, thay thế lao động quản lý thủ công bằng các trang thiết bị tính toán điện tử tự động.
3. Các hình thức thực hiện các phương pháp lãnh đạo, quản lý:
Hình thức thực hiện các phương pháp lãnh đạo, quản lý là toàn bộ các hình thức thực hiện ý đồ của phương pháp lãnh đạo, nó bao gồm rất nhiều loại hình khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện của hệ thống trong đó chủ yếu là các hình thức sau:
+ Ra văn bản quy chế làm việc của hệ thống: Đây là hình thức quản lý quan trọng nhất vì nó tạo lập khuôn khổ pháp lý cho hệ thống, nó phân chia ràng mạch ranh giới, trách nhiệm, quyền hạn, lợi ích của mỗi phân hệ, mỗi cá nhân trong hệ thống; đồng thời hình thành rõ mối quan hệ phối hợp hành động mang tính pháp quy của quản lý là: nó phải rõ ràng và phải bảo đảm tính ổn định, tính liên tục nhất định cho hệ thống thực hiện; nó mang tính hành chính bắt buộc mà không ai, không có bộ phận nào trong hệ thống được vi phạm; Chỉ có người lãnh đạo hệ thống mới có quyền sửa đổi hoặc huỷ bỏ.
+ Ký kết hợp đồng làm việc với từng người dựa trên quy chế tổ chức của hệ thống; trong đó là sự cam kết cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn, nghĩa vụ, lợi ích của lãnh đạo hệ thống và thành viên tham gia hệ thống.
+ Sử dụng người này khống chế, kiểm soát người kia thông qua việc uỷ quyền quản lý và sự phân cấp quản lý giữa người lãnh đạo với các thủ lĩnh của mỗi phân hệ, cũng như mối quan hệ ràng buộc lẫn nhau giữa mọi thành viên trong hệ thống.
+ Xây dựng các điển hình và các danh hiệu tôn vinh của hệ thống để xét tặng cho những cá nhân, những phân hệ có nhiều đóng góp cho hệ thống. Hình thành các mức độ kỷ luật để khiển trách; xử lý và loại bỏ những cá nhân, những phân hệ có những hành vi gây hại, gây xấu đến mục đích, uy tín và thành quả hoạt động của hệ thống.
+ Tạo môi trường làm việc hiệu quả, ổn định trong hệ thống để ít nhất cũng tạo ra được một thói quen làm việc hợp lý mang tính quán tính cho con người; còn tốt hơn nữa là tạo được một không khí sôi động thi đua sáng tạo có tính cạnh tranh lành mạnh giữa các cá nhân, giữa các phân hệ trong hệ thống. Tạo cho mọi người trong hệ thống cơ hội bình đẳng để vươn lên và tự khẳng định mình trong hệ thống.
+ Thực hiện các hình thức truyền thông trong hệ thống; làm cho mọi người trong tổ chức hiểu rõ được mục tiêu, ý đồ của hệ thống; triển vọng mà hệ thống sẽ đạt được trong đó lợi ích và thành tựu của từng người; nêu rõ các nguy cơ đe doạ từ các hệ thống bên ngoài, cũng như các cơ hội, các đồng minh cần thiết của hệ thống cần thực hiện. Trước các hiểm hoạ xảy ra cho hệ thống, mọi cá nhân, phân hệ phải biết dẹp bỏ các mâu thuẫn nội bộ, để cấu kết chặt chẽ với nhau cùng đương đầu với các hiểm hoạ để tồn tại và phát triển.
+ Mở rộng các mối quan hệ đối ngoại của hệ thống để cho mọi thành viên và các phân hệ của hệ thống có điều kiện mở rộng tầm nhìn, tận dụng các thành quả công việc của các hệ thống khác mà phấn đấu vươn lên hoàn thành với nhiệm vụ của mình; nhưng phải chống sự chuyển hoá vô thức, sự phai nhạt lý tưởng của hệ thống từ các phân hệ, các cá nhân hãnh tiến vì lợi ích ích kỷ của mình muốn phá hoại hệ thống.
+ Sử dụng các hình thức sinh hoạt nghỉ ngơi, giao tiếp rộng rãi trong hệ thống để tăng cường sự cảm thông và gắn bó giữa mọi thành viên, giữa các phân hệ trong hệ thống; qua đó hiệu chỉnh các mục đích và mục tiêu phát triển của hệ thống.
IV. MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TRONG VIỆC HOÀN THIỆN, NÂNG CAO PHƯƠNG PHÁP LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
1. Hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định có liên quan đến phương pháp lãnh đạo, quản lý
Để nâng cao phương pháp lãnh đạo, quản lý, trước hết cần phải hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định có liên quan, vì đây là những vấn đề có tính pháp lý để điều chỉnh hành vi của người lãnh đạo, quản lý trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, đồng thời là những điều kiện ràng buộc để người bị lãnh đạo, chấp hành và thực hiện nghiêm túc, đầy đủ mệnh lệnh của người lãnh đạo, quản lý. Vì vậy, việc hoàn thiện các cơ chế, quy chế, quy định có liên quan đảm bảo cho người lãnh đạo, quản lý là một tất yếu khách quan nhằm đảm bảo cho người lãnh đạo và người bị lãnh đạo thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình. Điều đó có nghĩa là, những gì không còn phù hợp hoặc làm hạn chế đến phương pháp lãnh đạo, quản lý thì cần phải được điều chỉnh bổ sung, sửa đổi một cách kịp thời, đầy đủ cho phù hợp với điều kiện thực tế, tạo thuận lợi cho việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả của phương pháp lãnh đạo, quản lý trước yêu cầu mới, trước đòi hỏi của thực tiễn.
Sự lạc hậu của cơ chế quản lý, của những quy chế, quy định không chỉ ảnh hưởng đến việc phát huy tính năng động, sáng tạo của các tập thể và cá nhân trong công tác, trong hoạt động sản xuất kinh doanh, mà còn làm giảm hiệu lực, hiệu quả của phương pháp lãnh đạo, quản lý vốn là một vấn đề luôn đòi hỏi ở người lãnh đạo phải năng động, sáng tạo thì mới giải quyết được những vấn đề phức tạp của cuộc sống đặt ra.
2. Xác lập mối quan hệ bình đẳng, dân chủ giữa người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý
Mối quan hệ này hoàn toàn không mang tính chất áp đặt nhằm mục đích giải quyết quyền lợi cá nhân, mà nó được xác lập trên cơ sở những nguyên tắc và lợi ích chung của cộng đồng, tập thể và cá nhân nên nó không có mâu thuẫn về trách nhiệm và lợi ích cho việc nâng cao phương pháp lãnh đạo, quản lý. Mối quan hệ này đòi hỏi các bên có liên quan phải thật sự tôn trọng nhau, không được dùng quyền lực của người lãnh đạo để bắt buộc người bị lãnh đạo chấp hành những quy định, mệnh lệnh của mình trái với những nguyên tắc, quy định chung đã được xác định. Ngược lại, người bị lãnh đạo cũng không được làm những điều trái với thẩm quyền của mình, vô tổ chức, vô kỷ luật.
3. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, tính tiên phong gương mẫu của người lãnh đạo, quản lý và người bị lãnh đạo, quản lý
Dù đứng ở vị trí nào, là người lãnh đạo hay người bị lãnh đạo đều phải nâng cao tinh thần trách nhiệm trong công tác của mỗi người. Phải dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm đối với công việc được giao, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao. Coi công việc của tập thể giao cũng như chính công việc của mình để phấn đấu thực hiện đến nơi, đến chốn, đạt được chất lượng và hiệu quả cao. Mặt khác phải thể hiện tính tiên phong gương mẫu trong công tác và trong cuộc sống. Không làm điều gì phương hại đến uy tín của tổ chức, của tập thể, của người lãnh đạo và người bị lãnh đạo; có tinh thần cầu thị, khiêm tốn, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư, có lối sống trong sạch, lành mạnh.
4. Nâng cao trình độ, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (cả cán bộ lãnh đạo, quản lý)
Trình độ, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có ảnh hưởng nhất định đến việc nâng cao phương pháp lãnh đạo, quản lý. Nếu thiếu trình độ, năng lực, phẩm chất đạo đức thì dù phương pháp lãnh đạo, quản lý có tối ưu đến mấy cũng không đem lại hiệu quả. Do đó, các cấp lãnh đạo, quản lý, các cơ quan đơn vị cần có kế hoạch, biện pháp để nâng cao trình độ mọi mặt cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức của mình theo tinh thần các nghị quyết của Đảng về tiêu chuẩn cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước cả về chuyên môn nghiệp vụ và cả về lý luận chính trị, nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên.

Không có nhận xét nào: