Thứ Năm, 19 tháng 8, 2010

VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG CÁC NỀN KINH TẾ

Cách thức giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản của một nền kinh tế: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? phụ thuộc quan trọng vào hình thức tổ chức và quản lý nền kinh tế của mối quốc gia.
Mỗi quốc gia khác nhau, xuất phát từ đặc điểm kinh tế, chính trị, lịch sử cụ thể của mình trong từng giai đoạn lịch sử đều chọn cho mình một hình thức tổ chức quản lý nền kinh tế (mô hình nền kinh tế) được xác định là phù hợp nhất.



Trong những cây xăng Tây Âu, Nhật Bản.v.v... là những giao kèo xã hội rất khác của Mỹ, và những cách nhìn nhận rất khác nhau về cung cách hoạt động của thị trường, cũng như phương pháp kiểm soát thị trường.

Người châu Âu và Nhật Bản tin vào việc nhà nước có quyền kiểm soát dân chúng và thị trường, trong khi người Mỹ thì tin rằng hãy để dân chúng nắm quyền và trả tự do cho thị trường tới mức nhất định, để cả hai tự phân định ra kẻ thắng người thua.

Do những người Nhật, Tây Âu v.v... không cảm thấy thoải mái trong các thị trường hoàn toàn tự do, với những lợi nhuận và trừng phạt sinh ra trong thị trường này, nên những cây xăng của họ được thiết kế để thể hiện những tấm đệm giữa những sự bất bình đẳng và để phân chia đồng đều các lợi nhuận.


Thế kỷ XX đã chứng kiến cuộc đấu tranh giữa hai hệ thống kinh tế, đúng hơn là giữa hai mô hình đối lập: Kế hoạch hóa và kinh tế thị trường.

Cuối thế kỷ XX câu trả lời đã rõ ràng:

Mô hình KHH tập trung đã thất bại trong việc duy trì tăng trưởng, tạo ra sự phồn vinh và đảm bảo phúc lợi kinh tế cao cho người dân.
Mô hình kinh tế thị trường đã tỏ ra thành công trong các nền kinh tế đa dạng: Tây Âu, Bắc Mỹ, Châu á, Mỹ Latinh,..

Thực ra cho thấy bàn tay vô hình của thị trường đã tự do thường tỏ ra ưu thế vượt trội so với bàn tay hữu hình của Nhà nước trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm của XH. Song trong một số trường hợp, bàn tay vô hình không vận hành tốt.
Khi đó, sự can thiệp của Nhà nước vào thị trường có thể nâng cao hiệu quả hoạt động chung của nền kinh tế.
Hầu hết các nước trên thế giới đều vận hành theo mô hình kinh tế hỗn hợp.

Trong nền kinh tế hỗn hợp hiện đại, cả nhà nước và thị trường cùng điều tiết các hoạt động kinh tế, Nhà nước đóng vai trò quan trọng chứ không đơn thuần giống như “một cảnh sát giao thông” giám sát và kiểm tra hoạt động của khu vực kinh tế tư nhân.
Làm thế nào để nâng cao vai trò Nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN?

Module1: Một số lý luận về
kinh tế thị trường trên thế giới
Kinh tế thị trường
Trong lịch sử phát triển KT – XH đã tồn tại hai loại nền kinh tế là kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá.

Kinh tế tự nhiên là kiểu kinh tế - xã hội, trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của chính người sản xuất ra nó.
=> Đây là kiểu nền kinh tế xuất hiện đầu tiên trong lịch sử và tồn tại phổ biến vào thời kỳ cuối của phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ.

Kinh tế hàng hoá là kiểu tổ chức kinh tế - xã hội, trong đó hình thái phổ biến của sản xuất là sản xuất ra sản phẩm để bán, để trao đổi trên thị trường.
Kinh tế hàng hoá ra đời, tồn tại 2 điều kiện:
Phải có sự phân công lao động xã hội
Sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất với nhau- sự tách biệt này dựa trên cơ sở chế độ tư hữu hoặc những hình thức sở hữu khác nhau về TLSX.
=> Kinh tế hàng hoá xuất hiện từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ tan rã và chế độ chiếm hữu nô lê ra đời.
Kinh tế hàng hoá sản xuất ra sản phẩm để bán vì mục đích thu lãi cao nhất. Vì vậy, lợi nhuận vừa là động lực, vừa là mục đích của kinh tế hàng hoá. Do đó, kinh tế hàng hoá thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh.

Kinh tế hàng hoá phát triển qua 2 giai đoạn:

Giai đoạn thấp – kinh tế hàng hoá giản đơn. Đặc trưng:
Sản xuất quy mô nhỏ, phân tán;
Kỹ thuật lao động lạc hậu, công cụ lao động thủ công là phổ biến, năng suất lao động thấp;
Tỷ lệ tích luỹ thấp do đó nền kinh tế phát triển chậm;
Kinh tế hàng hoá giản đơn gắn với phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và phong kiến.

Giai đoạn cao- kinh tế hàng hoá phát triển. Đặc trưng:
Sản xuất tập trung, quy mô lớn;
Công cụ lao động là máy móc, thiết bị ngày càng hiện đại, năng suất lao động cao;
Tỷ lệ tích luỹ cao, dó đó nền kinh tế phát triển nhanh.
Kinh tế hàng hoá phát triển gắn với phương thức sản xuất TBCN và CNXH- giai đoạn đầu của CNCS.

Kinh tế hàng hoá phát triển luôn vận động theo các yêu cầu của quy luật kinh tế khách quan của thị trường => gọi là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường chỉ là trình độ phát triển cao của nền kinh tế hàng hoá= > bản chất đều là sản xuất ra sản phẩm để bán, trao đổi trên thị trường.
Kinh tế thị trường là quá trình phát triển lịch sử tự nhiên, là quá trình phát triển kinh tế khách quan.

Kinh tế thị trường là gì?
Kinh tế thị trường là hình thức (trình độ) phát triển cao của kinh tế hàng hoá, trong đó toàn bộ các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của quá trình sản xuất đều thực hiện qua thị trường;

Kinh tế thị trường là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá, dịch vụ trên thị trường.

Kinh tế thị trường là nền kinh tế trong đó các quan hệ thị trường quyết định sự phân bổ nguồn lực thông qua hệ thống giá cả.

Kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường.

Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá theo yêu cầu các quy luật kinh tế khách quan của thị trường nhằm xác định ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế là sản xuất ra cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào?
Các đặc trưng của kinh tế thị trường
Các cá nhân được tự do ra quyết định kinh tế: Họ không bị buộc phải làm những điều mà họ cho là không có lợi; Họ được tự do lựa chọn việc làm, tham gia công đoàn và quyết định ông chủ của mình; tự do quyết định chi bao nhiêu thu nhập cho tiêu dùng hiện tại và chi vào hàng hoá dịch vụ nào; dành bao nhiêu để tích luỹ cho tương lai và phân bổ thế nào tài sản hiện có vào các danh mục đầu tư.
Các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh, quy mô, công nghệ, các yếu tố sản xuất, địa điểm, phương thức phân phối sản phẩm tạo ra,...
Hầu hết các quyết định đó không xuất phát từ động cơ đóng góp cho phúc lợi chung của toàn xã hội mà xuất phát từ lợi ích riêng. Giá cả đóng vai trò là công cụ phát tín hiệu để liên kết những quyết định phân tán đó và làm cho cả hệ thống ăn khớp với nhau.
Canh tranh là nguyên tắc có tính nền tảng của kinh tế thị trường, nó đòi hỏi các DN phải thường xuyên nâng cao hiệu quả mới có thể đứng vững trong cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung ứng để tối đa hóa lợi nhuận. Canh tranh là động cho phép các nguồn lực phân bổ có hiệu quả nhất. Những doanh nghiệp nào yếu kém, thua lỗ sẽ bị phá sản, các nguồn lực sẽ chuyển sang các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn
Các đặc trưng của kinh tế thị trường
Bước vào thị trường, doanh nghiệp với tín hiệu giá cả, họ chỉ ra quyết định vì lợi ích, lợi nhuận của riêng họ.
Song giống như bàn tay vô hình, hệ thống giá cả đã liên kết hành động của các cá nhân ấy và dẫn dắt họ tạo nên một kết quả nằm ngoài dự kiến là đem lại lợi ích cho XH tốt hơn so với khi họ chủ định làm vậy.
-> Đặc điểm ấy làm cho kinh tế thị trường tỏ ra ưu việt hơn hệ thống kế hoạch hóa tập trung trong việc phân bổ các nguồn lực khan hiếm.
Mô hình nền kinh tế chỉ huy (kế hoạch hoá tập trung)
Là mô hình mô tả nền kinh tế mà trong đó việc giải quyết 3 vấn đề kinh tế cơ bản chủ yếu do Nhà nước thực hiện theo phương thức kế hoạch hoá tập trung thống nhất. Đặc trưng là:
Không chấp nhận sự tồn tại của thị trường và sự chi phối của các quy luật thị trường
Việc lựa chọn phương án giải quyết ba vấn đề cơ bản của nền kinh tế cũng như các cơ sở sản xuất đều do nhà nước thực hiện. Nhà nước can thiệp trực tiếp và toàn diện vào các hoạt động sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong XH;
Nhà nước quản lý tập trung, theo kế hoạch thống nhất từ mọi hoạt động sản xuất và tiêu dùng;
Giữa người sản xuất và tiêu dùng không có mối liên hệ mật thiết vì các cơ sở sản xuất thực hiện các quá trình sản xuất và giao nộp sản phẩm cho NN theo các chỉ tiêu KH NN để NN thực hiện quá trình phân phối sản phẩm cho người tiêu dùng chứ không xuất phát từ nhu cầu của người tiêu dùng;
Người tiêu dùng không được tự do lựa chọn tiêu dùng cái mình cần mà tiêu dùng theo sự phân phối của NN;
Các đặc trưng của kinh tế thị trường
Sự liên kết tự động và linh hoạt: Hệ thống thị trường dựa trên các quyết định phi tập trung=> linh hoạt hơn, điều chỉnh nhanh hơn và dễ thích ứng hơn trong môi trường thường xuyên biến động. Lợi thế to lớn của thị trường là nó phát tín hiệu một cách tự dộng khi điều kiện thay đổi.

Thúc đẩy tiến bộ và tăng trưởng: Trong nền kinh tế thị trường, các cá nhân chấp nhận rủi ro, hy sinh thời gian và tiền bạc nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Hệ thống thị trường hoạt động thông qua việc thử nghiệm; lựa chọn và đào thải để phân loại hàng hoá và phân bổ nguồn lực vào những thứ được coi là ưu việt nhất: hàng hoá được sản xuất bởi những người có chi phí thấp nhất và được bán cho những người trả giá cao nhất.

Phi tập trung hóa quyền lực: và con người ít bị áp đặt do cơ chế vận hành là hướng đến lợi ích riêng và tự do quyết định; cạnh tranh là động lực phát triển quan trọng nhất trong nền kinh tế thị trường. Do áp lực từ phía các đối thủ cạnh tranh, các doanh nghiệ luôn phải tự tìm cách hoàn thiện mình để có thể sản xuất hàng hoá với chất lượng cao nhất, giá thành thấp nhất và phục vụ khách hàng tốt nhất thì mới thu được lợi nhuận, duy trì hoạt động và mở rộng thị phần trên thị trường.


Các loại hình kinh tế thị trường
Có 2 loại hình kinh tế thị trường:

KTTT tự do cạnh tranh: Dựa trên lý thuyết về sự chi phối của "bàn tay vô hình" là các quy luật thị trường khách quan. Việc sản xuất cái gì? sản xuất cho ai? sản xuất như thế nào? là do thị trường quyết định.
Đặc trưng của KTTT tự do cạnh tranh, nói vắn tắt như sau:
(1) mọi người đều có quyền tham gia thị trường;
(2) các quyết định kinh tế đều phải dựa trên tín hiệu của thị trường;
(3) cạnh tranh thị trường là quyền tự do tối thượng;
(4) nhà nước không can thiệp vào thị trường.

Thứ 2, KTTT có sự điều tiết của Nhà nước.
Đây là loại hình KTTT hỗn hợp - kết hợp giữa KTTT tự do cạnh tranh và sự điều tiết của Nhà nước.
Cơ sở lý luận là lý thuyết về sự kết hợp giữa sức mạnh của cơ chế thị trường và "bàn tay" nhà nước của trường phái kinh tế chủ nghĩa tự do mới và của trường phái chính hiện đại.
Ngày nay, hầu hết các nước trên thế giới đều phát triển KTTT có sự điều tiết của Nhà nước.

Mô hình phát triển kinh tế thị trường trên thế giới

Mô hình kinh tế thị trường tự do kiểu Mỹ
Mô hình kinh tế Nhật bản với sự kết hợp giữa thị trường và kế hoạch
Mô hình kinh tế thị trường xã hội của Cộng hoà Liên bang Đức
Mô hình các nước Đông Á (Nics) tương tự Nhật Bản
Mô hình Trung Quốc
1. Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu:
Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu có thể phân thành hai “nhánh”.
Một nhánh là kinh tế thị trường “Xã hội phúc lợi” ở Thụy Điển từ những năm 30 của thế kỷ XX.
Mô hình này được xây dựng dựa trên lý thuyết “Ngôi nhà chung cho mọi người“ của phái Xã hội-Dân chủ, mà đại diện là cựu Thủ tướng Thụy Điển P.A.Hanson;
Xuất phát từ mục tiêu của “Chủ nghĩa xã hội chức năng“, với khẩu hiệu: ”bình đẳng, đảm bảo xã hội, hợp tác và sẵn sàng giúp đỡ“.
Trong mô hình này, sự phát triển được thực hiện kết hợp hài hòa giữa mở rộng phúc lợi xã hội với kinh tế thị trường tư nhân.

Trong nền kinh tế, kinh doanh lớn tuy nằm trong tay một nhóm nhỏ, nhưng sự phân hóa giàu – nghèo đần dần được thu hẹp.

Tuy vậy, việc giữ mức phúc lợi xã hội cao cho mọi công dân dần dần trở thành gánh nặng cho nền kinh tế; phúc lợi xã hội “nuốt“ mất 1/3 GNP; sự thiếu hụt ngân sách và cán cân thanh toán luôn trầm trọng; năng suất lao động và khả năng cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp giảm; lạm phát cao.

Do đó, từ giữa những năm 70 đến những năm 90 (thế kỷ XX) nền kinh tế ngày càng trở nên trì trệ.

Sau gần 50 năm thực hiện mô hình kinh tế thị trường “Xã hội phúc lợi“ với mức tiền lương cao và chế độ tiền lương mang tính bình quân, đến những năm 90, Thụy Điển đã phải đặt mục tiêu giảm lạm phát lên trên mục tiêu đảm bảo toàn dụng công nhân; giảm thuế thu nhập từ 72% xuống còn 50%; tăng thuế gián thu; cắt giảm bớt các khoản trợ cấp phúc lợi; tư nhân hóa trong các lĩnh vực dịch vụ => Nghĩa là một số đặc trưng của mô hình đã bị loại bỏ.
1. Mô hình kinh tế thị trường Bắc Âu:
Một “nhánh“ khác của kinh tế thị trường Bắc Âu là nền “Kinh tế thương lượng“.
Lý thuyết về nền “Kinh tế thương lượng“ ra đời vào những năm 80 của thế kỷ XX.
Khái niệm nền “Kinh tế thương lượng“ biểu thị một cơ chế kinh tế – xã hội mà ở đó phần lớn sự phân bổ các nguồn lực là dựa vào các cuộc thương lượng.
Thương lượng, do vậy, là công cụ để tìm kiếm các giải pháp trong phân bổ nguồn lực và trong phát triển; thương lượng giúp tìm được tiếng nói chung và đồng thời là kỹ thuật thông qua các quyết định; xây dựng các mối quan hệ và được thỏa hiệp trong phát triển.
Khác với các giải pháp cực quyền, các quyết định kinh tế dựa trên thương lượng không thể là căn cứ và đối tượng để áp dụng các hình phạt mà được dựa vào trách nhiệm ràng buộc về chính trị, đạo đức nhiều hơn là các quy chế pháp luật.
Cũng khác với quan hệ thị trường do các đại diện tư nhân thực hiện một cách độc lập trên cơ sở ưu thế và nguồn lực riêng của mình; các giải pháp kinh tế dựa trên thương lượng được đưa ra trong quá trình hình thành các ưu tiên một cách tự do.


Trong nền “Kinh tế thương lượng“, liên tục có các cuộc đấu tranh, các cuộc xung đột ở nhiều góc độ khác nhau và chúng được giải quyết khi các bên liên quan tìm được tiếng nói chung. Do đó, thương lượng là đấu tranh; thỏa hiệp và đấu tranh luôn đi liền với nhau.
Tất nhiên, trong nền “Kinh tế thương lượng“, thương lượng không phải là công cụ duy nhất, mà chỉ là một trong các công cụ để thông qua quyết định; các công cụ truyền thống đã và vẫn là những nguyên tắc của cơ chế thị trường.
Nghĩa là nền kinh tế vận hành với sự kết hợp giữa thương lượng và các công cụ của cơ chế thị truờng; các công cụ này bổ xung cho nhau, có thể cạnh tranh, cản trở và thậm chí lấn át lẫn nhau.
Hiện tại, có hai quan điểm khác nhau đối với nền “Kinh tế thương lượng”:
Những người ủng hộ thì cho rằng, thương lượng là kiểu mẫu lành mạnh; có hiệu quả; bảo đảm sự chính thống của các giải pháp và tính trung thực của các bên trong quá trình thực hiện.
Phái “Tự do mới“ cho rằng, cần phải thay thế thương lượng bằng các nguyên tắc của thị trường, vì kinh tế thương lượng không uyển chuyển và không hiệu quả. Những nhà “Dân chủ“ thì phê bình rằng, kết quả thương lượng là không hợp pháp, không chính thống, cần thay thế các cuộc thương lượng bằng Nghị trường, là hình thức đại diện hợp pháp duy nhất của chính quyền.
Tuy vậy, dù ủng hộ hay phản đối nền “Kinh tế thương lượng“, thì một mặt cũng phải thừa nhận rằng, quá trình hình thành nền “Kinh tế thương lượng” ít nhất, cũng là một trong những nhân tố giúp kinh tế các nước Bắc Âu thích ứng một cách dễ dàng và tương đối thành công với những thay đổi trên thị trương thế giới; nhưng mặt khác hiện nay, vẫn chưa có một lý thuyết thỏa đáng, đầy đủ về nền “ Kinh tế thương lượng”.
2. Mô hình kinh tế thị trường Nhật Bản:
Kinh tế thị trường Nhật Bản đã tiến triển qua nhiều giai đoạn khác nhau và trở thành một trong những nền kinh tế thị trường hiện đại mà nhiều người coi là mẫu mực cho các nước phát triển sau noi theo.
Thời Phục Minh Trị. Đây là thời kỳ đã thực hiện những cải cách phi thường về chính trị, kinh tế và xã hội. Trước hết, hệ thống chính trị phi tập trung hóa được bãi bỏ để tạo ra sự thống nhất về chính trị của đất nước. Một Nhà nước tập trung được thành lập.
Về kinh tế và xã hội, sự phân chia xã hội thành các đẳng cấp cha truyền con nối bị thủ tiêu, thay vào đó là một xã hội hướng vào thành tựu; những người có tài và có năng lực đều có cơ hội tiến thân trong xã hội, bất chấp nguồn gốc xuất thân của họ.
Song song với việc thủ tiêu hệ thống đẳng cấp, các quy tắc và luật lệ phong kiến hạn chế quyền tự do kinh tế cũng được bãi bỏ; các biện pháp tích cực thúc đẩy cơ sở hạ tầng được thực hiện, đặc biệt là hệ thống giao thông vận tải; đẩy mạnh việc cải cách hệ thông tài chính – tiền tệ, trong đó đặc biệt là cải cách hệ thông thuế; thuế hiện vật được thay bằng thuế tiền, chế độ tiền tệ Tokagaoa được thay thế bằng một đồng tiền hợp lý và chuẩn hóa cho cả nước, việc phát hành tiền thuộc độc quyền của Chính phủ Trung ương.
Nhà nước tập trung mạnh cho đầu tư giáo dục; Chính phủ đồng thời khuyến khích tư nhân đầu tư phát triển các ngành công nghiệp hiện đại gắn liền với thực hiện tư nhân hóa các doanh nghiệp Nhà nước; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại để tiếp thu tư tưởng và kỹ thuật mới nhằm hiện đại hóa đất nước


Sau chiến tranh thế giới thứ hai, kinh tế Nhật Bản phục hồi và đạt được sự tăng trưởng “thần kỳ“.
Giai đoạn này gọi là nền kinh tế thị trường có hướng dẫn. Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ này là:
Chính phủ vừa thực hiện chính sách tạo điều kiện cho tư nhân tư do kinh doanh thuận lợi; vừa loại bỏ những yếu tố không hoàn thiện của thị trường.
Chính phủ đảm trách chi phí đầu tư cho những ngành công nghiệp không có lãi nhưng rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế như: xây dựng cơ sở hạ tầng, văn hóa, giáo dục…
Sự hợp tác giữa Chính phủ và tư nhân trong phát triển kinh tế được thực hiện một cách thường xuyên và chặt chẽ.
Chính phủ coi trọng công cụ kế hoạch hóa gián tiếp trong điều tiết, quản lý nền kinh tế quốc dân.

Tóm lại, sự phát triển kinh tế thị trường Nhật Bản:
Thực hiện dân chủ hóa kinh tế gắn liền với dân chủ hóa chính trị và xã hội.
Kinh tế thị trường không có nghĩa là nền kinh tế vô Chính phủ. Vì vậy cần có sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Thời kỳ đầu tiên phát triển kinh tế thị trường, Chính phủ Nhật Bản can thiệp trực tiếp rộng rãi và khá sâu vào nền kinh tế, nhưng sự can thiệp đó của Nhà nước càng về sau càng giảm dần.
Ngoài việc giải thoát về tư tưởng và đảm bảo quyền tự do kinh doanh, phải không ngừng chú trọng phát triển giáo dục – đào tạo.
Tăng cường và chủ động mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.
Tuy vậy, thời gian gần đây người ta bắt đầu đặt vấn đề về sự can dự quá nhiều của Chính phủ vào những lĩnh vực cơ sở hạ tầng và dịch vụ công cộng vì tính hiệu quả giảm sút của sự can dự này.
3. Kinh tế thị trường ở các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á:
Thứ nhất, vai trò của doanh nhân dưới sự điều tiết của “bàn tay thị trường“ được đề cao trong phát triển kinh tế. Vì vậy Nhà nước tập trung vào việc thực thi hệ thống chính sách nhất quán để tạo môi trường cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, coi khu vực kinh tế tư nhân là hạt nhân của kinh tế thị trường, là giường cột và động lực của nền kinh tế.
Thứ hai, xác định và thực thi vai trò của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á hạn chế sự tham gia vào hoạt động kinh doanh. Vì vậy tỷ trọng của khu vực kinh tế Nhà nước luôn rất nhỏ và sự tồn tại của khu vực kinh tế Nhà nước không bao giờ dẫn đến lấn át, chèn ép kinh tế tư nhân, mà là để giúp đỡ kinh tế tư nhân.
Chính phủ các quốc gia và vùng lãnh thổ NICS Châu Á rất chú trọng việc xây dựng Chính phủ mạnh và hiệu quả; đội ngũ công chức được đào tạo kỹ càng, chuyên nghiệp hóa cao, để thực thi nhiệm vụ; đề xuất và thực thi tốt những chính sách thông minh, sáng suốt. Do vậy, hoặc kích thích khả năng sáng tạo và chủ động của các công ty tư nhân; hoặc bảo vệ quyền lợi chính đáng của tư nhân trong các cuộc xung đột; hoặc điều hòa tốt lợi ích tư nhân với nhau; hoặc điều hòa được lợi ích tư nhân với lợi ích Chính phủ, lợi ích cục bộ với lợi ích toàn cục.
Chính phủ khi nâng đỡ cũng như khi trừng phạt, tất cả đều thực hiện một cách nhất quán, minh bạch trong khuôn khổ luật pháp quốc gia và công ước quốc tế

Thứ ba, khuyến khích “hướng ngoại” mạnh mẽ.
Công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu được thực thi một cách nhất quán theo phương thức: vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý hiện đại là của các công ty xuyên quốc gia, còn lao động và nguyên liệu (một phần nào đó) là của nước sở tại và thị trường tiêu thụ là các nước công nghiệp phát triển. Gắn liền song song với phương thức phát triển như vậy là hệ thống giải pháp, chính sách để khuyến khích xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài rất hữu hiệu.
Thực tiễn NICS Châu Á chứng minh rằng, mở cửa kinh tế; gắn sự phát triển kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, gắn sự phát triển thị trường trong nước với thị trường thế giới là con đường phát triển có hiệu quả nhất trong thời đại ngày nay.
Thứ tư, phát triển các hoạt động nghiên cứu – ứng dụng – triển khai tiến bộ khoa học – công nghệ.
Chính phủ NICS Châu Á rất chú trọng đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu và triển khai khoa học – công nghệ (thường từ 1,5 – 2% GNP) để gia tăng nhanh chóng năng lực khoa học – công nghệ quốc gia. Trong phát triển khoa học – công nghệ, bước đi của NICS Châu Á là, lúc đầu chủ yếu thực hiện sao chép, bắt chước và khi đã làm chủ được một số công nghệ phức tạp thì Chính phủ tăng đầu tư cho các phòng thí nghiệm và nghiên cứu; đẩy nhanh việc phát triển các ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học, chất xám cao; nhờ đó tăng nhanh tỷ lệ giá trị gia tăng, tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm và của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ năm, đẩy mạnh sự hình thành và phát triển các loại thị trường, đặc biệt là thị trường tài chính – tiền tệ và thị trường sức lao động; gắn với củng cố, kiện toàn và hiện đại hóa hệ thống tài chính, ngân hàng.
Tóm lại, các quốc gia, vùng lãnh thổ NICS Châu Á, một mặt vừa rất tôn trọng những nguyên tắc, quy luật, thể chế thị trường; vừa xác định đúng giới hạn về sự can thiệp vào kinh tế của Nhà nước và không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước
4. Kinh tế thị trường ở Trung quốc
Trước hết, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống cho rằng, kinh tế thị trường là thành quả của văn minh nhân loại, là thủ đọan kinh tế có hiệu quả cao, nó không có vấn đề “họ xã“ hay “họ tư “; mọi quốc gia đều cần sử dụng nó. Song vẫn có sự phân biệt về bản chất giữa “kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa“ và “kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa“.
Sự phân biệt này chủ yếu thể hiện ở hai mặt: cơ sở của chế độ sở hữu và chế độ phân phối.
Với sở hữu, kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy sở hữu tư nhân làm cơ sở, còn kinh tế thị trường Xã hội chủ nghĩa lấy sở hữu công cộng làm cơ sở.
Tuy vậy, lấy sở hữu công cộng làm cơ sở không có nghĩa là sở hữu công cộng thuần nhất, tuyệt đối, mà sở hữu công cộng ở những ngành, những lĩnh vực nào nhằm giữ vai trò chủ đạo đối với các hình thức sở hữu khác như : cá thể, tư nhân, hỗn hợp. Và cũng không có nghĩa là, kinh tế công hữu phải có tỷ trọng lớn, vì tỷ trọng cho từng ngành kinh tế đến đâu cho thích hợp là trên góc độ có lợi cho sự phát triển của sức sản xuất.
Về chế độ phân phối, khẳng định, kết quả cuối cùng của kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa không nhằm tập trung tài sản vào trong tay một số ít cá nhân như kinh tế thị trường Tư bản chủ nghĩa, mà nhằm đem lại sự sung túc chung cho mọi tầng lớp dân cư. Chủ nghĩa xã hội lấy phân phối theo lao động là chính, nhưng cũng chấp nhận các hình thức phân phối khác.

Phân đoạn một cách tương đối, thì quá trình chuyển sang kinh tế thị trường của Trung Quốc (từ tháng 12-1978 đến nay) có thể chia thành 4 giai đoạn và được thực hiện tập trung vào những vấn đề chính như sau:
Thứ nhất, thay đổi phương thức quản lý, từ kế hoạch hóa tập trung sang quản lý theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, mà hạt nhân là từ bỏ cách Chính phủ trực tiếp quản lý nền kinh tế, thực hiện quản lý gián tiếp từ sản xuất kinh doanh đến lĩnh vực phân phối; tách chức năng quản lý hành chính ra khỏi chức năng kinh doanh; tách quyền sở hửu với quyền kinh doanh; mở rộng quyền tự chủ cho các địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước theo phương thức “đẩy xí nghiệp ra thị trường“.
Thứ hai, cải cách giá. Đây là khâu quan trọng nhất và cũng gay go nhất trong quá trình chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường. Quá trình tự do hóa giá cả được thực hiện qua các giai đoạn khác nhau. Từ việc điều chỉnh giá nhiều mặt hàng theo chế độ hai giá là, giá quy định và giá hướng dẫn, đồng thời thả nổi giá cả hàng nông sản và hàng công nghiệp nhẹ; cho đến việc bãi bỏ tem phiếu, thực hiện giá cả thị trường tự do với nhiều loại nguyên, vật liệu; thừa nhận tư liệu sản xuất, thông tin khoa học, kỹ thuật, tiền tệ, sức lao động, đất đai… là hàng hóa. Tới nay, khoảng 75% vật tư và toàn bộ hàng nông sản là do thị trường quyết định giá; hàng tiêu dùng do Nhà nước chỉ định giá chỉ chiếm khoảng 10% tổng doanh thu.
Thứ ba, hình thành và phát triển thị trường các yếu tố sản xuất. Chính phủ ban hành luật pháp và các chính sách để thúc sự hình thành và phát triển các loại thị trường như : thị trường kỹ thuật, vật tư, vốn, sức lao động, đất đai… Sự xuất hiện và phát triển hệ thống thị trường đã làm cho cơ chế thị trường của Trung Quốc hoạt động ngày càng linh hoạt, mềm dẻo và rộng khắp trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Thứ tư, đa dạng hóa các hình thức sở hữu, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển của mọi thành phần kinh tế; thừa nhận một cách chính thức sự tồn tại lâu dài và khẳng định vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc. Đồng thời đẩy mạnh quá trình cấu trúc lại kinh tế Nhà nước. Vì vậy kinh tế tư nhân trong nước ngày càng được khuyến khích phát triển mạnh bằng những chính sách ưu đãi về thuế, tín dụng… và được liên doanh, liên kết với kinh tế nước ngoài.
Thứ năm, hình thành phong cách kinh doanh thích ứng với kinh tế thị trường và kinh doanh quốc tế; tự do hóa thương mại; mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, gia nhập WTO.
Cơ sở lý thuyết của vai trò nhà nước về kinh tế
Câu hỏi đặt ra là nếu thị trường tự do cho phép phân bổ các nguồn lực có hiệu quả thì tại sao Nhà nước lại cần can thiệp vào hoạt động kinh tế?
Tại sao các nước không thực hiện một chính sách hoàn toàn tự do (laisser-fair) để mặc tư nhân kinh doanh?
Câu trả lời là: Mặc dù không thể thay thị trường, nhưng nhà nước có thể hoàn thiện các hoạt động thị trường.

Cơ sở lý thuyết của vai trò nhà nước về kinh tế
Cơ sở lý thuyết của vai trò nhà nước về kinh tế
Lý thuyết bàn tay vô hình, trong tác phẩm Của cải của các dân tộc – Vai trò Nhà nước:
Xây dựng và bảo đảm môi trường hòa bình, không để xảy ra nội chiến, ngoại xâm
Thực hiện được vai trò là trọng tài, đem lại quyền tự do, bình đằng cho người dân. vai trò này gắn với 2 nhiệm vụ:
Bằng hệ thống luật pháp, Nhà nước phải đảm bảo quyền căn bản của mọi công dân mà trước hết là quyền tư hữu (sở hữu cá nhân) gắn với những điều kiện có tính nền tảng: tự do kinh tế, tự do ký kết hợp đồng, tự do cư trú,...
Nhà nước phải thông qua hệ thống pháp luật, dùng nó để điều chỉnh các quan hệ kinh tế - xã hội, khắc phục và hạn chế những thủ đoạn cạnh tranh phi kinh tế, phi đạo đức.
Cung cấp, duy trì và phát triển hàng hóa công cộng.
Tất cả các vấn đề còn lại đều có thể giải quyết ổn thỏa nhịp nhàng bởi bàn tay vô hình;
Cơ sở lý thuyết của vai trò nhà nước về kinh tế
Lý thuyết tổng quát về việc làm, tiền tệ và lãi suất – J.M Keynes (1936) quan điểm ủng hộ Nhà nước có vai trò can thiệp vào thị trường mới được chấp nhận một cách rộng rãi. Lý do là:
Bàn tay vô hình cần được Chính phủ bảo vệ bởi vì thị trường chỉ vận hành tốt nếu như quyền sở hữu được tôn trọng => chúng ta đều dựa vào công an và toà án do Chính phủ cung cấp để thực thi quyền của chúng ta đối với những thứ do chúng ta tạo ra.
Mặc dù thị trường là phương thức tốt để tổ chức hoạt động kinh tế, nhưng quy tắc cũng có một vài ngoại lệ. Trong một số trường hợp, bản thân thị trường không thể mang lại những kết quả đáng mong muốn cho toàn xã hội. Khi điều này xảy ra, các nhà kinh tế nói THỊ TRƯỜNG ĐÃ THẤT BẠI.

Thuật ngữ “Thất bại thị trường” không có nghĩa là không có điều gì tốt đẹp được thực hiện, mà nó chỉ hàm ý rằng những kết quả tốt nhất lẽ ra có thể đạt được lại không được thực hiện.
Thuật ngữ “Thất bại thị trường” thường được sử dụng trong 2 tình huống:
Thất bại thị trường do thị trường không thể phân bổ các nguồn lực một cách hiệu quả;
Thất bại thị trường được ở những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội bên cạnh mục tiêu hiệu quả kinh tế.
Thất bại trong việc phân bổ các nguồn lực có hiệu quả
Cạnh tranh không hoàn hảo: Adam Smith chỉ dựa trên giả thuyết về thị trường cạnh tranh hoàn hảo; Trên thực tế, quá trình tích tụ và tập trung tư bản có thể dẫn đến độc quyền hoặc các hình thái kiểm soát thị trường ở các mức độ khác nhau = > Hầu hết các nền kinh tế thị trường đều thông qua đạo luật cạnh tranh.
Hàng hóa công cộng: Vì hàng hóa công cộng có 2 đặc tính: tính không cạnh tranh trong tiêu dùng và tính không loại trừ. Do vấn đề người sử dụng miễn phí, nên khu vực tư nhân không có động cơ cung ứng hàng hóa công;
Ngoại ứng: Ngoại ứng phát sinh khi hành cộng của một cá nhân có ảnh hưởng đến phúc lợi của người ngoài cuộc, nhưng lại không phải trả bất kỳ khoản bồi thường nào cho ảnh hưởng này.
Thông tin không cân xứng: Nhiều khi cuộc sống, một số người có được thông tin nhiều hơn người khác, và sự khác biệt về thông tin có thể ảnh hưởng đến sự lựa chọn mà mọi người đưa ra cũng như cách thức tương tác giữa họ với những người xung quanh.
Chu kỳ kinh doanh: do làn sóng lạc quan hay bi quan thái quá của các doanh nghiệp ảnh hưởng đến tổng đầu tư.


Giải thích thêm – Thất bại trong phân bổ các nguồn lực hiệu quả
Các mục tiêu xã hội khác
Có một số mục tiêu hoàn toàn phi kinh tế, các giá trị mọi người cần chia sẻ:
Lòng yêu nước
Niềm tin vào tự do

Cơ sở lý thuyết của vai trò nhà nước về kinh tế
Trên cơ sở những thất bại của thị trường, Nhà nước thường được khuyến nghị nên thực hiện các chức năng chủ yếu sau:
a) Xác lập các điều kiện cần thiết về thể chế pháp lý cho việc sản xuất và trao đổi hàng hóa, dịch vụ, bao gồm cả việc bảo vệ quyền sở hữu và trách nhiệm thực hiện hợp đồng;
b) Hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô;
c) Cung cấp cơ sở hạ tầng vật chất;
d) Kiểm tra và giám sát các hoạt động kinh tế;
e) Tham gia trực tiếp vào sản xuất hàng hóa và dịch vụ.
Thảo luận xem các vấn đề c, d, e

Phê phán của lý thuyết tân cổ điển về vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế
Phê phán
Trong việc cung ứng cơ sở hạ tầng, xây dựng và vận hành hệ thống viễn thông, cung cấp các dịch vụ công cộng như điện và nước => nhà nước cần khai thông tiềm năng của khu vực tư nhân, không phải là một nguồn thay thế mà là một nguồn bổ sung cho Nhà nước trong việc cung ứng kết cấu hạ tầng;
Can thiệp trực tiếp vào hoạt động kinh tế của khu vực tư nhân (ưu đãi đầu tư, bảo hộ ngành sản xuất trong nước);
Sự can thiệp trực tiếp của nhà nước trong lĩnh vực sản xuất.
Phê phán của lý thuyết tân cổ điển về vai trò quản lý Nhà nước về kinh tế
Các nguyên nhân chính gây ra Thất bại của Chính phủ:
Nhà nước gắn với quyền lực, từ việc hình thành luật pháp đến việc thực thi pháp luật với một bộ máy hành pháp và tư pháp đồ sộ, do vậy khuynh hướng phổ biến là quan liêu, sách nhiễu bằng các thủ tục hành chính phức tạp, rối rắm.
Các nhà chính trị và các tác nhân khác nhạy bén và tư lợi liên kết để kiểm soát việc phân bổ nguồn lực theo lợi ích của họ.
Hành vi tham nhũng trong giới chính trị gia và các quan chức chính phủ;
Không có hoặc thiếu các nhân viên có đủ năng lực với sự hiểu biết cần thiết về kinh tế các hoạt động kinh doanh;
Thiếu kiến thức về khu vực tư nhân và cách thức hoạt động của khu vực này.
-> Các nhà tân cổ điển đề nghị: nên tối thiểu hóa vai trò của Nhà nước: Nhà nước cần càng can thiệp càng ít càng tốt. Nhà nước nên để cho cơ chế giá cả trong các thị trường cạnh tranh xác định sản xuất cái gì và sản xuất bao nhiêu.



Module3: Cách tiếp cận mới về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường


Những ý kiến gần đây về Nhà nước đã chỉ ra rằng sự phân đôi kiểu tân cổ điển – Nhà nước hay thị trường, công cộng hay tư nhân – thất bại ở hai khía cạnh:

Giữa Nhà nước và thị trường, công cộng và tư nhân không có một ranh giới rõ ràng. ở hầu hết các nước, giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân “thuần tuý” là các loại hình liên doanh chồng chéo; các doanh nghiệp nhà nước có ban quản lý được thuê từ tư nhân; các hãng tư nhân hoạt động với các đặc quyền của nhà nước,...;

Các thị trường đòi hỏi một khuôn khổ pháp lý và điều tiết mà chỉ Chính phủ mới có thể cung cấp. Các quyền và trách nhiệm pháp lý cũng quan trọng như hệ thống trao đổi hàng hoá của thị trường.

=> Nhà nước và thị trường ở các nước đang phát triển đều không hoạt động đúng như các giả định và giả thuyết của các lý thuyết.

Như vậy, vấn đề đặt ra không chỉ đơn thuần là sự lựa chọn nhà nước hay thị trường. Nói cách khác, mối quan tâm hàng đầu là xác định sự phân công hợp lý giữa Nhà nước và thị trường nhằm khai thác triệt để những lợi thế, đồng thời tránh được hoặc giảm thiểu những thất bại của cả Nhà nước lẫn thị trường.


Quan điểm của nhiều nhà kinh tế hiện đại là quy mô tuyệt đối của khu vực nhà nước và mức độ can thiệp của Nhà nước không quan trọng bằng cách thức hoạt động của Nhà nước và các loại quan hệ mà Nhà nước thiết lập với khu vực tư nhân.
Theo quan điểm này, nội dung quan trọng trong các chương trình cải cách theo hướng thị trường là phải xác định được xem hoạt động can thiệp nào của Chính phủ nên giữ nguyên, thương mại hoá, tư nhân hoá, phân cấp tới các chính quyền địa phương, hoặc chấm dứt hoàn toàn.
Để đánh giá các hoạt động can thiệp của Nhà nước: xem có tính khả thi về kinh tế hay chính trị hay không?
Tính khả thi kinh tế: nhiệm vụ quan trọng là thiết lập một mối quan hệ hoạt động giữa khu vực nhà nước và tư nhân. WB cho rằng: Nhà nước nên ít tham gia vào những lĩnh vực mà thị trường vận hành tốt; và nên tham gia nhiều vào các lĩnh vực không thể dựa vào thị trường. Khi các hành động là cần thiết, chúng nên đi cùng hoặc thông qua các lực lượng thị trường chứ không phải chống lại thị trường.
Tính khả thi chính trị: điều quan trọng là phải xem liệu có khả năng huy động được sự hỗ trợ đủ lớn cho những cải cách chính sách đã được đề xuất hay không.



Cách thiết lập mối quan hệ hoạt động này với khu vực tư nhân sẽ cho phép Chính phủ bù đắp được bất kỳ những thất bại thị trường nào bằng cách chi trả cho những hàng hoá và dịch vụ đặc biệt quan trọng đối với xã hội, thậm chí khi chúng không thể sản xuất và bán trên góc độ thương mại. Mối quan hệ hoạt động này cho phép Chính phủ chi trả cho một số đối tượng xã hội không có được sức mua cần thiết và cung cấp một mạng lưới an sinh cho người nghèo.

Vấn đề tư nhân hoá: Theo Lý thuyết này, bản thân tư nhân hoá không được coi là mục đích, mà nó là phương tiện để đạt được các mục tiêu khác, bao gồm việc cung cấp cơ sở hạ tầng hoặc dịch vụ công cộng một cách hiệu quả đối với người dân. Quá trình tư nhân hoá phụ thuộc vào các nguồn lực và trình độ quản lý của khu vực tư nhân trong việc vận hành các doanh nghiệp liên quan. Tính không hiệu quả của khu vực công cộng không thể đơn thuần thay thế bằng tính không hiệu quả của khu vực tư nhân. Quá trình này phụ thuộc vào việc liệu khuôn khổ pháp lý cần thiết và các điều kiện khác, bao gồm môi trường cạnh tranh và năng lực quản lý của khu vực tư nhân, có tồn tại hay không.




Liên quan đến việc phân cấp và thúc đẩy sự phát triển khu vực tư nhân, Chính phủ có thể lựa chọn giữa hai thái cực chính sách và hàng loạt các cách kết hợp:
Các chính sách hoạt động chủ yếu thông qua các lực lượng thị trường;
Các chính sách kiểm soát và mệnh lệnh hoạt động dưới sự quản lý của Chính phủ nhờ đó hàng hoá và dịch vụ được sản xuất theo các ưu tiên và quy trình được xác định trước về mặt chính trị, do vậy phần nào thay thế các cơ chế thị trường.

Không có nhận xét nào: